10 kiến trúc sư tài ba – niềm tự hào của đất nước Nhật Bản

Cho dù phát triển các truyền thống của riêng mình như: Ikebana, Karate hay Sushi; hoặc cải tiến dựa trên những ý tưởng khác như ô tô, đồng hồ và thậm chí cả Disney, rõ ràng là Nhật Bản tự hào về công việc của mình và luôn nỗ lực cho sự hoàn hảo. Một trong những lĩnh vực phổ biến nhất để hỗ trợ khẳng định này là lĩnh vực kiến ​​trúc. Các kiến ​​trúc sư Nhật Bản đã phát triển các tòa nhà trên toàn cầu, và nổi tiếng về sự chú ý đến từng chi tiết và ý tưởng độc đáo. 

Hãy cùng tìm hiểu về một số kiến ​​trúc sư Nhật Bản nổi tiếng từng đoạt giải thưởng và công trình mang tính biểu tượng nhất của họ mà chúng tôi đã tổng hợp sau đây:

1. Tange Kenzo

Tange Kenzo (1913 – 2005) được biết đến là người làm nên bộ mặt của kiến trúc thế kỷ 20. Phong cách kiến trúc của ông được tạo nên với những sự hòa trộn từ các phong cách kiến trúc phương Tây kết hợp với phong cách kiến trúc Nhật Bản để tạo nên những điểm độc đáo cho nền kiến trúc thế kỷ 20.

Thuở nhỏ, Tange Kenzo cùng gia đình sinh sống tại Hankou và Thượng Hải, Trung Quốc. Sau khi người chú của ông qua đời, gia đình ông dời về sống tại Nhật Bản. Tại đây, gia đình ông sống trong một làng quê nghèo tại Ima Imabari thuộc đảo Shikoku, Nhật Bản.

Ông là một người có tính cách nhẹ nhàng, phóng khoáng và có một niềm đam mê mãnh liệt với những công trình kiến trúc, nghệ thuật và những thiết kế ứng dụng cho cuộc sống. Nhanh chóng bén duyên với nghệ thuật từ nhỏ từ khi ông chuyển đến Hiroshima để học trung học. Tại đây, ông đã bắt gặp những hiện đại của Thụy Sĩ, ông theo học tại Đại học Tokyo khoa kiến trúc. Vào năm 1946, ông trở thành trợ lý cho giáo sư tại Đại học Tokyo và mở xưởng thực nghiệm cho riêng mình. Sau đó, ông cũng dạy kỹ thuật đô thị với tư cách là một giáo sư, và một số sinh viên của ông đã trở thành những kiến ​​trúc sư nổi tiếng. 

Những ảnh hưởng từ nhỏ về các phong cách kiến trúc phương Tây đã hình thành nên cho ông một phong cách kiến trúc riêng biệt và những ảnh hưởng sâu rộng đến các thiết kế với phong cách kiến trúc hiện đại. Các thiết kế của ông mang một sự thanh đạm và tao nhã của phương Tây, những công trình kiến trúc trên thế giới và được kết hợp cùng với những phong cách kiến trúc cổ điển của Nhật Bản tạo nên một thiết kế đặc sắc, nét đẹp truyền thống và hiện đại. 

Từ những phong cách thiết kế đặc biệt và tận dụng các thiết kế phương Tây kết hợp cùng với nét kiến trúc đặc trưng truyền thống của Nhật Bản, Tange Kenzo đã mang đến nhiều công trình đặc sắc, mở ra những thiết kế hiện đại tại Nhật Bản và đem lại cho đất nước nhiều công trình mang tính lịch sử.

Nhà thi đấu quốc gia Yoyogi được ông thiết kế với ý tưởng phần mái được lấy từ “cung điện Xô Viết”. Ông muốn tạo nên một công trình sân vận động thể thao độc đáo nhất không chỉ riêng tại Nhật Bản mà trên toàn thế giới. Với sự kết hợp của các yếu tố Nhật Bản ông thiết kế phần mái theo những mái đền. Thiết kế của ông được chấp thuận và khi hoàn thiện công trình mang đến sự ấn tượng và kinh ngạc của nhiều người trước công trình đặc sắc này.

Công viên Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima được ông thiết kế với một trục thẳng nối liền 3 điểm bảo tàng, đài tưởng niệm và tòa nhà mái vòm bom nguyên tử. Công viên được thiết kế với một khu vực rộng lớn là nơi đã hứng chịu khi bom nguyên tử ném xuống khu vực này. Toàn bộ công viên được thiết kế với những lối kiến trúc hiện đại, một sự sống mới trên khu đất này. Riêng tòa nhà mái vòm bom nguyên tử được ông giữ lại để thể hiện chứng tích lịch sử cho vụ ném bom.

Tòa nhà văn phòng chính quyền tỉnh Kagawa được ông thiết kế với phong cách kiến trúc truyền thống trên nền kiến trúc hiện đại. Điểm nổi bật của công trình có thể nhìn thấy rõ ở hệ thống cột trụ và xà ngang từ bên ngoài. Ông lấy ý tưởng thiết kế tòa nhà này từ những ngôi chùa truyền thống của Nhật Bản. Nhìn bên ngoài tòa nhà như được xây dựng từ gỗ, tuy nhiên các vật liệu đều là bê tông, cốt thép.

Trong suốt giai đoạn sự nghiệp của mình, Tange Kenzo mang đến nhiều công trình đặc sắc, đóng góp công sức không hề nhỏ cho bộ mặt kiến trúc của Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung. Những công trình của ông đem lại những thiết kế hiện đại, mang đến sức sống mới cho toàn bộ nước Nhật. Với những công trình vĩ đại trong sự nghiệp của mình, ông vinh dự nhận được nhiều giải thưởng lớn và danh giá như: giải Asahi 1964, huân chương văn hóa năm 1980, giải thưởng Pritzker vào năm 1987, và giải thưởng của Hội nghệ thuật Nhật Bản năm 1993, huy chương vàng RIBA, AIA và Viện Hàn Lâm kiến trúc Pháp.

2. Maki Fumihiko

Maki Fumihiko sinh ngày 6/9/1928 tại Tokyo, Nhật Bản. Ông là một kiến trúc sư Hiện đại nổi tiếng thế giới. Là học trò của Tange Kenzo tại Đại học Tokyo, Maki Fumihiko tốt nghiệp năm 1952. Sau đó ông chuyển đến học tại Học viện Hàn lâm Nghệ thuật Cranbrook tại Bloomfield Hills, Michigan, Mỹ. Sau đó, ông lấy bằng thạc sĩ kiến trúc tại Đại học Harvard. Sau khi ra trường, ông làm việc cho các hãng Skidmore, Owings & Merrill ở New York và Sert Jackson và cộng sự ở Cambridge. Năm 1956, ông làm trợ lý giáo sư tại Đại học Washington và thiết kế công trình đầu tiên trên đất Mỹ là Trung tâm nghệ thuật Steinberg. Trong suốt thời gian làm việc trên đất Mỹ, Maki Fumihiko đã trải nghiệm được những kinh nghiệm thẩm mỹ về cả phương Đông và phương Tây và tạo dựng được cho mình một khiếu thẩm mỹ đa dạng để đáp ứng mọi loại khách hàng.

Năm 1965, Maki Fumihiko quay lại Nhật Bản mở văn phòng thiết kế Maki và cộng sự tại Tokyo. Hầu hết những công trình của ông được xây dựng tại Nhật Bản. Vật liệu ưu thích của ông là các vật liệu truyền thống của kiến trúc hiện đại như: thép, bê tông, kính… nhưng được mở rộng ra các vật liệu mới như nhôm và thủ pháp mới như khảm, chạm… Ông rất quan tâm đến việc ứng dụng các kỹ thuật cao vào công trình của mình. Mặc dù tự nhận mình là người theo chủ nghĩa Hiện đại, nhưng kiến trúc của ông lại rất quan tâm đến truyền thống lịch sử Nhật.

Maki Fumihiko là người đưa ra khái niệm “oku” trong kiến ​​trúc. “Oku” là một khái niệm xoay quanh các không gian được tạo ra bởi các đường viền của một cấu trúc. Để hiểu rõ hơn khái niệm “Oku”, du khách nên xem các tác phẩm của Maki Fumihiko như: Spiral hoặc trụ sở TV Asahi ở Tokyo, Bảo tàng Shimane Museum of Ancient Izumo, hoặc Bảo tàng Aga Khan ở Toronto. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông nằm ngoài Nhật Bản, và nếu du khách tình cờ đến khuôn viên MIT ở Massachusetts, phần mở rộng MIT Media Lab cũng bắt nguồn từ bàn vẽ của Maki Fumihiko.

3. Ando Tadao

Ando Tadao – một cái tên được nhắc đến như một niềm tự hào của đất nước Nhật Bản, là một nhà kiến trúc sư tài ba. Những công trình của ông đã trở thành một biểu tượng, một nét đẹp độc đáo và mới lạ của Nhật Bản. Ando Tadao sinh ngày 13/9/1941 tại Osaka, Nhật Bản. Ông là một con người kiên trì, chăm chỉ luôn khát khao thực hiện đam mê của mình và nổi bật nhất đó là trở thành kiến trúc sư nổi tiếng mà chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào.

Năm 15 tuổi, khi nhìn thấy những người thợ đến sửa chữa cho nhà của mình, cậu bé Ando Tadao đã cảm thấy vô cùng thích thú với công việc đó. Nhưng cuộc đời của Ando Tadao lại bén duyên với quyền anh. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, Ando Tadao đã vượt qua vòng đấu chuyên nghiệp, với mỗi trận đấu thắng, anh sẽ được trả 4.000 Yên. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến một buổi tập của một người tầm cỡ vô địch thế giới thì Ando Tadao nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ có thể được như vậy nên anh đã từ bỏ sự nghiệp võ sĩ. Sau khi từ bỏ con đường võ sĩ, Ando Tadao quay trở về với đam mê thuở ban đầu của mình đó là kiến trúc, thế nhưng anh quyết định là tự học thay vì theo học ở trường lớp để không tạo ra gánh nặng cho gia đình mình.

Năm 18 tuổi, anh bắt đầu hành trình khám phá của mình khi tìm đến những công trình kiến trúc như: đền, miếu và các tòa nhà tiêu biểu của Nhật Bản. Năm 20 tuổi, Ando Tadao bắt đầu đi đến các nước Châu Âu, Châu Mỹ với mong muốn chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc vĩ đại trên thế giới. Sau khi rong ruổi ở nước ngoài trong suốt khoảng thời gian từ 1962 – 1969, năm 1969 ông trở về quê hương và tạo nên nhiều công trình nổi tiếng làm nên tên tuổi của mình.

Ando Tadao coi trọng sự đơn giản của thiết kế – sự pha trộn giữa hư vô và không gian trống, với một chút tự nhiên. Các thiết kế của ông ấy chịu ảnh hưởng của tôn giáo và lối sống Nhật Bản và tác phẩm của ông có thể mang đến cho người ta cảm giác “Zen” với các bề mặt lớn và cách sử dụng sáng tạo ánh sáng tự nhiên. Đặc biệt là Nhà thờ Ánh sáng của ông ở Osaka trưng bày tác phẩm nghệ thuật này với ánh sáng hình chữ thập được hình thành bởi ánh sáng từ bên ngoài qua các khe giữa các bức tường. Các công trình đáng chú ý khác là Omotesando Hills ở Tokyo, Bảo tàng Nghệ thuật Chichu và Ngôi nhà Benesse ở Naoshima, và Bảo tàng Nghệ thuật Tỉnh Hyogo. Ông không chỉ thiết kế các tòa nhà ở Nhật Bản mà còn ở các nước châu Á khác, châu Âu và Mỹ.

4. Kikutake Kiyonori

Kikutake Kiyonori (1928 – 2011) là một kiến ​​trúc sư nổi tiếng người Nhật được biết đến như một trong những người sáng lập nhóm Metabolist (Trao đổi chất). Kikutake Kiyonori đã có ảnh hưởng lớn đến kiến ​​trúc thành phố mang tính cách mạng giữa những năm 1960 và 1990. Phong trào Metabolist được biết đến với sự pha trộn thú vị giữa kiến ​​trúc truyền thống của Nhật Bản với kiến ​​trúc hiện đại của phương Tây thời hậu chiến. Họ đã thiết kế các tòa nhà có lưu ý đến cuộc sống của cư dân thành phố và nhu cầu dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh sống và làm việc luôn thay đổi của họ. Trong thời hậu chiến, nền kinh tế bắt đầu phát triển vượt bậc và phong trào Metabolist cũng phát triển theo. Một số tòa nhà của họ trông giống như tàu vũ trụ, và tòa tháp Nakagin Capsule nổi tiếng do Kikutake thiết kế, được xây dựng chỉ trong 30 ngày ở Tokyo là một trong những ví dụ điển hình về phong cách kiến ​​trúc đang dần biến mất này.

Kikutake Kiyonori được biết đến nhiều nhất với dự án “Thành phố biển” năm 1958, là một phần của Tuyên ngôn Trao đổi chất được đưa ra tại Hội nghị Thiết kế Thế giới ở Tokyo năm 1960 dưới sự lãnh đạo của Kenzo Tange. Ông cùng với thành viên Kisho Kurokawa được mời triển lãm tác phẩm tại triển lãm “Kiến trúc có tầm nhìn” ở New York năm 1961, qua đó những người theo chủ nghĩa Trao đổi chất đã được quốc tế công nhận. Kikutake Kiyonori tiếp tục hành nghề cho đến khi qua đời vào năm 2011, xây dựng một số tòa nhà công cộng quan trọng trên khắp Nhật Bản cũng như giảng dạy quốc tế. Ông cũng là Chủ tịch và sau đó là Chủ tịch danh dự của Viện Kiến trúc sư Nhật Bản .

Trong sự nghiệp của mình, Kikutake Kiyonori đã nhận được nhiều giải thưởng ở cả quê hương Nhật Bản và quốc tế. Chúng bao gồm Giải thưởng Học viện Kiến trúc Nhật Bản (1970) và Giải thưởng UIA (Union Internationale des Architectes) Auguste Perret (1978).

5. Kurokawa Kisho

Kurokawa Kisho (1934 – 2007) là một trong những kiến trúc sư hàng đầu Nhật Bản trong thế kỷ XX. Ông cũng là một trong những người sáng lập nhóm Metabolist (cùng với Tange Kenzo, Kikutake Kiyonori và Maki Fumihiko) nổi bật trong suốt thập niên 1960. Kurokawa Kisho luôn ủng hộ cách tiếp cận triết học nhằm hiểu được bản chất kiến trúc rồi đưa nó vào công trình của mình.

Ông lưu ý rằng vô thường và không chắc chắn là một phần của cuộc sống ở Nhật Bản mà ông chuyển thành các tòa nhà có thể tháo rời và thích nghi được. Ý tưởng của người Nhật về việc thiên nhiên tươi đẹp như nó cũng trở lại trong tác phẩm của Kurokawa Kisho; vật liệu được sử dụng như nguyên bản của chúng mà không cảm thấy cần phải che phủ chúng hoặc sử dụng màu sắc không tự nhiên. Sự cởi mở để thay đổi là một trụ cột khác của phong trào Trao đổi chất, với các đơn vị dễ dàng hoán đổi cho nhau là một phần không thể thiếu của phong trào. Việc tái chế này cũng làm cho các tòa nhà Metabolist trở nên bền vững, vì vậy theo một cách nào đó, chúng đã đi trước thời đại. Nhà hát Quốc gia Bunraku ở Osaka, Bảo tàng Nghệ thuật Thành phố Nagoya, Trung tâm Nghệ thuật Quốc gia ở Roppongi (Tokyo) và Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Tỉnh Saitama là một trong những tác phẩm đáng chú ý của Kurokawa Kisho. Ông cũng thiết kế nhiều tòa nhà ở nước ngoài, trong đó có một cánh của Bảo tàng Van Gogh nổi tiếng ở Amsterdam.

6. Ito Toyo

Ito Toyo sinh ngày 1/6/1941 tại Seoul, Hàn Quốc. Cha ông là một doanh nhân có niềm yêu thích với đồ gốm sứ thời kỳ đầu triều đại Yi của Hàn Quốc và các bức tranh theo phong cách Nhật Bản. Năm 1943, Ito Toyo cùng mẹ và hai chị gái quay trở lại Nhật Bản. Hai năm sau, cha của ông cũng về Nhật Bản, và gia đình ông cùng sống ở quê nhà của cha ông là thành phố Shimosuwa ở tỉnh Nagano. Cha ông mất lúc ông 12 tuổi. Sau đó, cả gia đình điều hành một nhà máy sản xuất bột Miso.

Khi còn trẻ, Ito Toyo thừa nhận ông không có hứng thú nhiều với kiến ​​trúc. Tuy là vậy nhưng cũng có ít nhiều ảnh hưởng từ ban đầu. Ông nội của Ito Toyo là một người buôn bán gỗ, và cha ông lại thích vẽ mặt bằng cho những ngôi nhà của bạn bè mình. Khi Ito Toyo còn là học sinh năm nhất trung học, mẹ ông đã nhờ kiến ​​trúc sư thời kỳ đầu của Chủ nghĩa Hiện đại, Yoshinobu Ashihara, thiết kế ngôi nhà của họ ở Tokyo. Kiến trúc sư Ashihara vừa trở về Nhật Bản từ Hoa Kỳ và đã làm việc cho văn phòng của kiến trúc sư Marcel Breuer. Ito Toyo chuyển đến Tokyo và học tại trung học Hibiya khi đang học năm thứ ba trung học cơ sở. Tại thời điểm đó, ông chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một kiến trúc sư, niềm đam mê của ông là bóng chày. Khi theo học tại Đại học Tokyo, kiến trúc đã trở thành mối quan tâm chính của ông. Với đồ án tốt nghiệp của mình, ông đã đề xuất tái thiết Công viên Ueno và đã giành được giải thưởng cao nhất của Đại học Tokyo. Ito Toyo bắt đầu làm việc tại văn phòng Kiyonori Kikutake & Associates sau khi ông tốt nghiệp Khoa Kiến trúc của Đại học Tokyo năm 1965. Đến năm 1971, ông thành lập studio của riêng mình ở Tokyo và đặt tên là Urban Robot (Urbot). Năm 1979, ông đổi tên thành Toyo Ito & Associates, Architects.

Được biết đến với phong cách đặc trưng bởi sự nhẹ nhàng, vui tươi và cá tính, Ito Toyo đã cho ra đời một số công trình kiến ​​trúc rất sáng tạo. Ito Toyo cho rằng không chỉ tiện ích mà cả thị giác cũng rất quan trọng trong kiến ​​trúc. Sau khi tham gia phong trào Metabolist, Ito Toyo thành lập công ty riêng của mình và ban đầu ông tập trung vào việc thiết kế các dự án khu dân cư nhỏ hơn. Ngôi nhà mà ông thiết kế cho người em gái của mình hoàn toàn là màu trắng bên trong chỉ có vài ô cửa sổ đón ánh sáng xuyên qua với những hiệu ứng thú vị. Sau đó, ông lại tiếp tục thực hiện các dự án lớn hơn, trong đó có Tháp Gió ở Yokohama có màn trình diễn ánh sáng, Mediatheque ở Sendai trông giống như một thủy cung và cửa hàng hàng đầu Mikamoto Ginza 2 vui tươi ở Tokyo có thiết kế ngọc trai.

7 – 8. Sejima Kazuyo & Nishizawa Ryue

Sejima Kazuyo sinh năm 1956 tại tỉnh Ibaraki, là một kiến ​​trúc sư nữ người Nhật với phong cách thiết kế có nhiều yếu tố mang tính hiện đại như hình khối và bề mặt bóng bẩy. Cô có xu hướng thích thủy tinh và các vật liệu giống như thủy tinh trong công việc của mình.

Sejima Kazuyo tốt nghiệp Đại học Phụ nữ Nhật Bản năm 1979. Sau đó tiếp tục hoàn thành khóa học Thạc sĩ về kiến ​​trúc vào năm 1981 và làm việc tại Toyo Ito. Đến năm 1995, cô thành lập Công ty SANAA (Sejima and Nishizawa and Associates) cùng với Nishizawa Ryue. Sejima Kazuyo được bổ nhiệm làm Director of the Architecture Sector cho Venice Biennale. 

Nishizawa Ryue sinh năm 1966, đến từ Kanagawa, Nhật Bản. Anh tốt nghiệp Đại học Quốc gia Yokohama và là giám đốc công ty riêng – Văn phòng Ryue Nishizawa – thành lập vào năm 1997. Năm 1995, anh đồng sáng lập công ty thiết kế kiến trúc SANAA với kiến ​​trúc sư Sejima Kazuyo. Năm 2010, anh trở thành người trẻ nhất từng nhận được Giải thưởng Pritzker, cùng với Sejima.

Kiến trúc sư Nishizawa Ryue có phong cách thiết kế gắn bó mật thiết với thiên nhiên, kiến trúc của anh làm nổi bật thiên nhiên và hướng nhận thức của con người đến nó. Trong các dự án của Nishizawa Ryue sẽ thường thấy đất trống, xen kẽ với các loài thực vật phong phú có dạng biểu cảm. Mặt đất không được cắt tỉa cẩn thận hoặc quá cứng; cây không đồng đều, đa dạng tạo cảm giác tự nhiên và hơi lôi thôi, tạo nên cảm giác hoang dã và chân thực hơn. Ngoài ra, cách Nishizawa Ryue sử dụng các vật liệu thông thường như thép, xi măng, đá và kính để sáng tạo những các cấu trúc một cách điêu luyện mà không hề bám sát vào lý thuyết cũ kỹ rằng vật liệu nào chỉ nên dùng cho cấu trúc nào.

Công ty SANAA có các dự án trải dài khắp Châu Âu, Úc, Châu Á và Hoa Kỳ. Một số dự án nổi tiếng nhất của họ bao gồm: cửa hàng Christian Dior ở Omotesando (Tokyo) và Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Thế kỷ 21 (Kanazawa, Nhật Bản), Trung tâm Học tập Rolex (Thụy Sĩ) và Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Mới (Thành phố New York ).

9. Hara Hiroshi

Hara Hiroshi sinh năm 1936 là một kiến ​​trúc sư đã được đào tạo ở cả Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ông nhận bằng Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ tại Đại học Tokyo trước khi trở thành phó giáo sư tại trường. Ông đã xuất bản các bài tiểu luận lý thuyết về kiến ​​trúc, một trong những ấn phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Thành phố rời rạc”.

Cấu trúc tự nhiên của làng xóm trên những hòn đảo Cyclades ở Hy Lạp hay trong những khu rừng nhiệt đới ở Nam Mỹ là những minh họa cho các ý tưởng của ông. Hara Hiroshi quan tâm tới chúng như “tiêu điểm của hành tinh”. Bên cạnh đó ông còn rất thích thú với các vật liệu công nghệ cao như nhôm và thép. Từ những ý tưởng, ông đã thổi chúng vào các tác phẩm thực tế của mình như: Yamato International Building năm 1987, Umeda Skycity 1993, Tổ hợp ga Kyoto ở Kyoto, Mái vòm Sapporo ở Sapporo. Ông nói: “Tôi thực sự thích những công trình thiết kế của tôi, nó xoá nhoà đường đi bao ngăn cách giữa thiên nhiên và kiến trúc”.

10. Kuma Kengo

Kuma Kengo được giới chuyên môn kiến trúc tôn trọng như một trong những kiến trúc sư đương đại nổi tiếng nhất Nhật Bản. Ông sinh năm 1954 tại Yokohama, sau này, ông chuyển đến thành phố New York, nơi ông theo học tại Đại học Columbia, cuối cùng trở thành giáo sư tại các trường đại học ở Hoa Kỳ và Nhật Bản. Ông thành lập Kuma Lab vào năm 2009 với sự hỗ trợ từ Đại học Tokyo. Kuma Lab là một phòng thí nghiệm nghiên cứu tập trung vào kiến ​​trúc và các lĩnh vực liên quan như tính bền vững và vật liệu kết cấu. Kuma tự mình lãnh đạo bộ phận này. Kuma Kengo đã tuyên bố rằng mục tiêu chính của ông ấy là khôi phục truyền thống của các tòa nhà Nhật Bản và diễn giải lại chúng cho thế kỷ 21. Sự kết nối giữa bên trong và bên ngoài được chú trọng rất nhiều trong các dự án của ông.

Các thiết kế của Kuma Kengo lấy cảm hứng lớn từ thiên nhiên. Đi ngược lại xu hướng thiết kế hiện đại với các công trình lớn đồ sộ từ bê tông cốt thép, thiết kế của Kengo Kuma thấm nhuần vẻ đẹp tự nhiên, tinh tế, dẻo dai, nhấn mạnh vào sự sáng tạo, hài hòa với con người và khung cảnh xung quanh. Triết lý hòa hợp, “lấy nhu thắng cương” thể hiện rõ trong từng công trình và ông cũng là một trong số ít kiến trúc sư luôn giữ được bản sắc cá nhân một cách nguyên vẹn trong các tác phẩm của mình.

Các thiết kế của Kuma Kengo sở hữu một sự đơn giản nhất định nhưng luôn nổi bật và khiến người đi đường chỉ muốn dừng lại và ngắm nhìn. Ông đã thiết kế một số bổ sung mới tuyệt vời nhất của Tokyo như: Trung tâm Thông tin Du lịch ở Asakusa, Bảo tàng Nezu, Starbucks Reserve Roastery ở Nakameguro và La Kagu ở Kagurazaka. Ở Saitama, Kuma đã thiết kế Thị trấn Tokorozawa Sakura trong tương lai. Kuma Kengo gần đây đã có một số hoạt động nổi tiếng trên toàn thế giới trong Thế vận hội Tokyo 2020, khi ông chịu trách nhiệm thiết kế Sân vận động Quốc gia Nhật Bản ở Shinjuku (Tokyo), nơi tổ chức Lễ khai mạc cùng các sự kiện khác.

Như vậy, chúng ta đã cùng tìm hiểu về 10 kiến trúc sư người Nhật tài ba nhất. Tất cả họ không chỉ tài năng mà còn không ngừng tiến bộ để có được danh tiếng như ngày hôm nay. Nếu du khách có hứng thú khám phá những kiến trúc độc đáo cũng như tìm hiểu thêm về các kiến trúc sư tài ba ở “xứ Phù Tang”, hãy Book Tour Nhật Bản của chúng tôi nhé!

Okutama – khu vực đầy sức cuốn hút và “ngọt ngào” của Tokyo, Nhật Bản

Tại Nhật Bản, Okutama là một điểm đến tuyệt vời để du khách có thể hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn và quên đi những muộn phiền của cuộc sống thường nhật. Okutama có cảnh quan thiên nhiên rộng lớn và hùng vĩ. 

Nằm trong lòng Tokyo nhưng lại hoàn toàn khác biệt với những khu phố nhộn nhịp ở Shibuya, Okutama tựa như một miền quê, nơi du khách có thể trốn khỏi những ồn ào của thành phố. 

Thuộc Công viên Quốc gia Chichibu Tama Kai, Okutama là một phần thiên nhiên tuyệt đẹp nằm trong Tokyo và chỉ cách trung tâm khoảng 2 giờ đi xe. Từ đi bộ trên mặt nước đến khám phá dưới lòng đất, có vô số hoạt động ở Okutama dành cho tất cả mọi người, từ những người yêu thiên nhiên yên bình đến những người tìm kiếm cảm giác mạnh tràn trề năng lượng.

Khi giao mùa, nhiều người đến du lịch vào mùa thu để ngắm nhìn cảnh vật lá mùa thu đầy ngoạn mục. Được phản chiếu qua mặt nước hồ nguyên sơ, chạy dọc theo những con sông chảy xiết và tô điểm cho những sườn núi, các màu sắc màu đỏ, cam và vàng càng làm tăng thêm vẻ đẹp cho một nơi vốn đã hoàn mỹ.

Tại Okutama có vô số những địa điểm đẹp, nhiều đến mức mà du khách sẽ không biết nên bắt đầu đến thăm đâu trước trong chuyến đi của mình. Dù du khách muốn từ từ cảm nhận hay háo hức muốn đi và trải nghiệm hết, sau đây là những địa điểm gợi ý của chúng tôi dành cho du khách:

  • Thung lũng Hatonosu

Xuống xe ở ga JR Hatonosu và đi xuôi theo đường cao tốc Ome, du khách sẽ thấy ngay trước mắt một không gian rộng lớn với những hòn đá lớn có hình thù kì lạ – đó chính là Thung lũng Hatonosu. Dòng nước trong veo chảy dọc giữa các phiến đá như những sợi chỉ trong một bức tranh thêu tạo nên vẻ đẹp riêng hiếm có mà tạo hóa đã ban tặng cho thung lũng này. 

Cung đường đi bộ dài khoảng 2km là điều thu hút nhất ở Thung lũng Hatonosu. Vào mùa thu khi lá bắt đầu đổi màu, vẻ đẹp của thung lũng càng trở nên nổi bật hơn, đó là sự tương phản giữa vẻ hoang dã của tự nhiên và vẻ đẹp của màu lá đỏ thân thương. 

Trên trục đường đi bộ, du khách sẽ gặp một cây cầu treo Hatonosu và có thể ngắm nhìn Thung lũng Hatonosu từ đây. Vẻ đẹp của thiên nhiên như được hội tụ hết tại đây; càng đi vào bên trong, màu xanh của thung lũng sẽ trở nên “sâu hơn” trong cảm nhận của du khách. Nước suối len lỏi qua các khe đá xếp chồng lên nhau và chụm lại thành một dòng lớn với tiếng chảy vang động cả thung lũng, thể hiện sức mạnh của tự nhiên và hẳn sẽ khiến du khách kinh ngạc thích thú.

  • Đập Ogouchi

Đập Ogouchi được xây dựng để ngăn nước của sông Tamagawa quen thuộc ở Tokyo. Con đập này được khởi công xây dựng vào năm Showa thứ 13 (năm 1938) nhưng sau đó bị tạm dừng do chiến tranh xảy ra. Đến năm Showa thứ 32 (1957), Đập Ogouchi cơ bản hoàn thành với tổng chi phí 15 tỷ Yên, xây dựng trong 19 năm. 

Vào thời điểm khánh thành, con đập này được công bố là hồ chứa lớn nhất thế giới; đến nay, người dân vẫn tự hào vì đây là hồ chứa nước sinh hoạt lớn nhất cả nước. Từ đài quan sát, du khách sẽ thấy một con đập “hoành tráng” đến mức khó có thể hình dung nó đã trên 50 tuổi. Vì vậy, đây chính là nơi cho du khách những cảm nhận rõ nhất về trình độ kỹ thuật siêu việt người Nhật cũng như sự kỳ diệu của tự nhiên.

Tầng 2 của tháp quan sát có góc trưng bày giới thiệu lịch sử và mô hình diorama của con đập, các bạn nhỏ khi đến đây vô cùng thích thú khi được ngắm nhìn con đập qua mô hình tổng thể này. Từ phòng quan sát ở tầng 3, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một con đập khổng lồ với mặt nước lấp lánh màu xanh ngọc, in bóng khung cảnh xung quanh, tạo nên một không gian như mơ giúp du khách giải tỏa mọi muộn phiền của cuộc sống. 

  • Hồ Ogouchi

Ogouchi được biết đến là một trong những hồ chứa nước uống lớn nhất ở Nhật Bản. Hồ nhân tạo này được tạo ra bằng cách xây dựng một con đập trên sông Tamagawa. Hồ Ogouchi chứa 180.000.000 tấn nước, cung cấp khoảng 20% nước sinh hoạt cho người dân Tokyo. 

Hồ Okutama được bao quanh bởi những ngọn núi, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và thay đổi theo từng mùa như mùa hoa anh đào vào mùa xuân, mùa lá xanh vào mùa hè, mùa lá đỏ trong mùa thu. Tại trung tâm giới thiệu lịch sử hồ Okutama, du khách sẽ bất ngờ khi biết rằng một dãy suối nước nóng đã bị chìm sâu dưới đáy đập. Nơi đây không chỉ thu hút bởi cảnh quan tự nhiên mà còn là cơ hội để du khách học những bài học lịch sử.

Một trong những điểm nổi bật thu hút du khách là Cầu nổi Mugiyama với hình dáng khác thường, uốn lượn trên mặt nước đến chân núi Mito. Được gọi là Mugiyama-Ukihashi, nó là một trong hai cây cầu tự chống đỡ trên mặt nước và nằm gần Đền Ogouchi. Có thể nói, bằng cách sử dụng các phao nổi hỗ trợ, những cây cầu có thể nổi, mang đến sự thay đổi để đi trên mặt nước.

Một trong những điểm nổi bật thu hút du khách là Cầu nổi Mugiyama với hình dáng khác thường, uốn lượn trên mặt nước đến chân núi Mito. Được gọi là Mugiyama-Ukihashi, nó là một trong hai cây cầu tự chống đỡ trên mặt nước và nằm gần Đền Ogouchi. Có thể nói, bằng cách sử dụng các phao nổi hỗ trợ, những cây cầu có thể nổi, mang đến sự thay đổi để đi trên mặt nước.

Hồ Ogouchi còn có một tháp quan sát cũng như con đường mòn đi bộ qua Vườn Đá Núi Mitake, với những thác nước và con suối trên núi.

  • Hang đá vôi Nippara

Nippara là hang đá vôi lớn nhất vùng Kanto và được công nhận là Di sản thiên nhiên của Tokyo. Với chiều dài 800m và lịch sử hình thành huy hoàng từ trước năm 1200, nơi đây được coi như một khu vực linh thiêng, giống như thánh địa Mecca của người Hồi giáo. 

Bên trong hang đá vôi Nippara được chia thành 2 khu, hang cũ và hang mới được phát hiện vào năm Showa thứ 38 (1963), cả 2 đều rất tuyệt vời và huyền bí. Du khách vẫn luôn bị thu hút bởi những cột thạch nhũ và măng đá trong hang mới. Người ta nói rằng cần phải mất 200 năm để có được 3cm thạch nhũ, vậy mà chỉ cần đến đây là du khách có thể chiêm ngưỡng được những tác phẩm nghệ thuật có giá trị hàng nghìn năm đáng kinh ngạc của tạo hóa.

Bên trong hang còn có nhiều địa điểm sẽ khiến du khách phải dừng lại, trầm trồ thán phục trước sự kỳ diệu của thiên nhiên như: Gama-ishi hay Byakue-kannon,… Nhiệt độ trong hang luôn ở mức thấp nên rất phù hợp khi du khách đến đây vào những ngày nắng nóng. Ở đây cũng có hướng dẫn bằng âm thanh nên du khách có thể chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của tự nhiên kết hợp với lời kể và âm nhạc nhẹ nhàng.

  • Suối nước nóng Moegi-no-yu Okutama

Suối nước nóng Okutama Moeginoyu là một trong những điểm tham quan tự nhiên chưa bị con người khai thác còn sót lại ở Okutama. Người ta nói rằng 100% nước khoáng nóng ở đây nằm ở lớp địa tầng Đại cổ sinh – tầng đất được cho là cổ nhất ở Nhật Bản.

Đến đây, du khách có thể vừa thoải mái thư giãn trong làn suối nước nóng ngoài trời vừa ngắm nhìn dòng chảy trong vắt của sông Tamagawa và những dãy núi sừng sững ngay trước mắt. Hoặc du khách cũng có thể tĩnh tâm, lấy lại tinh thần bằng cách leo núi hoặc đi bộ đường dài để tận hưởng bầu không khí trong lành của những cánh rừng. Ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của những dãy núi ở Okutama từ bồn tắm sẽ làm cho tâm hồn du khách trở nên vô cùng thư thái. Đây thực sự là một địa điểm lý tưởng cho những ai muốn có những phút giây thư giãn và quên đi những mệt mỏi của cuộc sống thường nhật.

Nếu du khách không có đủ thời gian để thư thái ngâm mình trong suối khoáng thì ngâm chân cũng là ý tưởng không tồi. Cách này không thể làm du khách thư giãn toàn bộ cơ thể như tắm suối khoáng, nhưng sẽ có tác dụng giúp thúc đẩy lưu thông máu ở bàn chân, rất phù hợp với những người hay bị lạnh và người cao tuổi. Khu suối nóng còn có một phòng ăn kiểu Nhật rộng khoảng 65m2 nên du khách hoàn toàn có thể ăn và nghỉ ngơi sau khi tắm.

  • Công viên Yamano-furusatomura

Yama-nofurusatomura là một công viên tự nhiên nằm trong công viên Chichibu-tamakai, do chính quyền thành phố Tokyo quản lý. Là một địa điểm tham quan ở Okutama, nơi đây thường xuyên tổ chức các chương trình chạy bộ và nhiều sự kiện thu hút rất đông người tham dự. Công viên chia làm 3 khu: khu dành cho khách tham quan, khu cắm trại và khu làm đồ thủ công, để du khách có thể đến đúng điểm tùy theo mục đích.

Vào khu cắm trại, du khách có thể chọn khu vực cắm trại, khu vực có phòng riêng hoặc khu vực tổ chức BBQ tùy theo mục đích của mình. Nếu du khách đang e ngại vì lần đầu đi dã ngoại ngoài trời thì hoàn toàn có thể yên tâm vì khu vực này còn có dịch vụ phòng tắm miễn phí và cửa hàng dành cho khách nghỉ tại công viên. Các nhà vệ sinh sạch sẽ và điện thoại công cộng cũng được cung cấp đầy đủ để phục vụ nhu cầu của khách.

Khu vực làm đồ thủ công là nơi để mọi người chơi, học và cảm nhận thiên nhiên của Okutama. Các lớp học như: học làm đồ gỗ, làm đồ gốm sứ, làm đồ đá được tổ chức thường xuyên với giáo viên hướng dẫn là các chuyên gia của từng lĩnh vực. Đây là nơi hoàn hảo để du khách có thể tự do nghiên cứu và phát huy khả năng sáng tạo của mình vào những kỳ nghỉ hè, và cũng là nơi để cha mẹ và con cái có thể tương tác và hiểu nhau nhiều hơn.

  • Bảo tàng Seseragi-no-sato

Bảo tàng Seseragi-no-sato là nơi du khách có thể chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật trong không gian thiên nhiên của Okutama. Xuống ga Mitake trên tuyến JR Oume, đi bộ khoảng 20 phút xuôi theo con sông trong không khí tươi mát của núi rừng, du khách sẽ đến Bảo tàng Mitake. Đi quá một chút nữa, du khách sẽ đến được ngôi nhà gỗ kiểu nhà dân sinh, được bao quanh bởi cây cối rậm rạp như cây bách, tuyết tùng.

Mỗi năm, Bảo tàng Seseragi-no-sato đều tổ chức định kỳ triển lãm 4-5 lần các tác phẩm và tác giả liên quan đến vùng Tama. Tòa nhà bảo tàng có kết cấu khá đặc biệt, sử dụng các chất liệu từ chính những nhà dân 150 tuổi đã bị phá hủy ở Okutama. Chỉ cần đến đây để thăm và quan sát kiến trúc của ngôi nhà này thôi cũng khiến cho chuyến đi của du khách trở nên vô cùng giá trị. Vẻ đẹp của bảo tàng hòa quyện vào khung cảnh thiên nhiên xung quanh tạo nên một không gian đậm chất thơ.

Bước vào bên trong, du khách sẽ thấy bếp lửa sưởi ấm với đường viền xung quanh được xây bằng đá tạo nên một không gian ấm cúng của một ngôi nhà dân khác hẳn với những bảo tàng cận đại thường có.

Trong khuôn viên bảo tàng có quán trà nhỏ “Sobakaiseki-no-Tannawa” nổi tiếng với món Soba và Kaiseki rất ngon. Ngồi thưởng thức những món ăn tinh tế trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp quả là một điều tuyệt vời!

Vùng Okutama của Tokyo là một khu vực đầy sức cuốn hút và “ngọt ngào” bởi những phong cảnh đẹp và nhiều loại hình hoạt động ngoài trời thú vị. Đến đây trong chuyến du lịch Nhật Bản, du khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp và sự hùng tráng của thiên nhiên bằng cả 5 giác quan qua những điểm du lịch nổi tiếng, cũng như thư giãn trong những làn suối nước nóng!

10 Họ phổ biến và 6 Họ hiếm nhất ở Nhật Bản

Có thể du khách chưa biết, tại Nhật Bản có đến hơn 120.000 “Họ” khác nhau. Lý do là vì trước đây 80% người Nhật không có “Họ” và sau cải cách Minh Trị, để dễ quản lý, thu thuế, nhà nước đã cho phép họ tự chọn “Họ” của mình. 

Trong văn hóa Nhật Bản, “Họ” phản ánh rất rõ nét những đặc trưng về địa vị xã hội, về tôn giáo và quê hương của người Nhật. Dưới đây là ý nghĩa của 10 Họ phổ biến ở Nhật Bản:

1. Sato

Họ “Sato” đứng đầu bảng xếp hạng và được sử dụng nhiều nhất ở Nhật Bản. Người ta nói rằng hiện có khoảng 1.862.000 người Nhật có Họ “Sato”, và hầu hết họ sống ở vùng Tohoku.

Sato mang ý nghĩa là “cánh đồng hoa tử đằng”. Ngoài ra, chữ “sa” trong “Sato” còn có nghĩa là sự giúp đỡ. Có thể, những người mang họ Satou là người hay giúp đỡ người khác, tính tình hào phóng và sống gần cây tử đằng.

Họ “Sato” được cho là có nguồn gốc từ một trong những thành viên của gia tộc Fujiwara (Mr. Fujiwara), một gia đình quý tộc nổi tiếng ở Nhật Bản cổ đại, và Họ “Satou” được cho là bắt đầu từ đó.

2. Suzuki

Suzuki là Họ phổ biến thứ hai ở Nhật Bản, với khoảng 1.791.000 người trên toàn quốc. Du khách có thể biết cái tên này từ cầu thủ bóng chày nổi tiếng người Nhật Ichiro Suzuki, người từng chơi cho Seattle Mariners ở Mỹ.

Chữ kanji “Suzu” có nghĩa là “chuông”, và “ki” có nghĩa là “gỗ”. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của họ Suzuki. Tuy nhiên, giả thuyết phổ biến nhất là giả thuyết cho rằng cái tên này có nguồn gốc từ vùng Kumano của Kii (Kii, Wakayama ngày nay và phần phía Nam của Tỉnh Mie), nơi có nghi lễ cắm cây gậy vào đống rơm rạ sau khi thu hoạch để cầu mong mùa màng bội thu cho năm sau. Cây gậy dùng trong nghi lễ này được gọi là “Susuki”, được cho là nguồn gốc của Họ Suzuki. Cũng nhiều người cho rằng Họ này xuất thân từ dòng dõi linh mục tên là Hozumi.

3. Takahashi

Họ phổ biến thứ ba ở Nhật Bản là “Takahashi”, với khoảng 1.405.000 người. Chữ kanji “taka” có nghĩa là “cao” và “hashi” có nghĩa là “cây cầu”. Mặc dù có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Họ này, nhưng phổ biến nhất là nó có nguồn gốc từ một cây cầu được xây dựng trên một khe núi ở tỉnh Yamato (tỉnh Nara ngày nay). Người ta nói rằng khi cây cầu được nhìn từ mặt đất, nó có vẻ cao hơn rất nhiều so với thực tế, do đó những người sống ở đó bắt đầu tự gọi mình là “Takahashi”.

Nhân vật nổi tiếng mang họ Takahashi là Takahashi Rumiko, nhà sáng tác truyện tranh có nhiều tác phẩm được yêu thích trên toàn thế giới.

4. Tanaka

Có khoảng 1.330.000 người Nhật mang Họ “Tanaka” và hầu hết họ sống ở miền Tây của đất nước. Theo tiếng Nhật, “Tanaka” có nghĩa là “cánh đồng lúa ở giữa làng”, trong đó “Ta” có nghĩa là “gạo ruộng” và “naka” có nghĩa là “bên trong” hoặc “giữa”. Nhiều người cho rằng, trước đây có một gia đình sở hữu cánh đồng lớn với ngôi nhà ở giữa, họ muốn thể hiện đặc điểm của mình qua tên Họ, và thế là dòng họ Tanaka ra đời.

5. Ito

Với ước tính 1.069.000 người, “Ito” là Họ phổ biến thứ 5 ở Nhật Bản. Ngoài Họ Ito với những chữ kanji cụ thể này, còn có một Họ khác có cách phát âm giống nhau nhưng khác kanji là Ito. Nguồn gốc của Họ này là được cho là bắt đầu từ một trong những hậu duệ của gia tộc Fujiwara, như họ Sato. Hậu duệ đến Ise (tỉnh Mie ngày nay) và bắt đầu sử dụng nó như một Họ bằng cách kết hợp “I” từ Ise với “to” của Fujiwara.

6. Watanabe

Họ phổ biến thứ 6 ở Nhật Bản là “Watanabe”, với khoảng 1.059.000 người trên toàn quốc. Chữ kanji “Watanabe” có nghĩa là “vượt qua” và có nghĩa là “xung quanh” hoặc “vùng lân cận”. Mặc dù người ta nói rằng có một số nguồn gốc của Họ “Watanabe”, giả thuyết được tin tưởng nhất là nó xuất phát từ nghề “Watabe” (nghề lái đò) từ lâu.

Tuy nhiên, Watanabe thực chất vốn là tên một địa danh, nơi hậu duệ của hoàng đế Saga định cư vào thế kỷ thứ 8. Người ta cho rằng, tổ tiên của dòng họ này là một chiến binh tên Tsuna, người làm rạng danh nền văn hoá Samurai ở thế kỷ 10 – 11. Dòng họ Watanabe đã trở thành huyền thoại và rất nhiều người đã lấy họ này vì vậy Watanabe ngày nay là một trong những Họ phổ biến nhất ở Nhật Bản.

7. Yamamoto

Ở Nhật Bản có khoảng 1.045.000 người mang Họ “Yamamoto”, hầu hết sống ở miền Tây của đất nước. “Yama” có nghĩa là “núi” và “moto” có nghĩa là “sách” hoặc “chính”. Yamamoto có nghĩa là “chân núi” vì “sách” cũng có thể có nghĩa là “cơ sở” hoặc “gốc”. “Yamashita” cũng xuất phát từ “chân núi” và có cùng nghĩa với Yamamoto.

Nguồn gốc của Họ “Yamamoto” được cho là đến từ những người sống ở chân núi, vì hầu hết đất đai ở Nhật Bản đều được bao phủ bởi họ.

8. Nakamura

Ở vị trí thứ 8 là Họ “Nakamura”, ước tính có khoảng 1.040.000 người trên toàn quốc. “Naka” có nghĩa là “trung tâm”, và “mura” có nghĩa là “làng”. 

Nguồn gốc của Họ “Nakamura” bắt nguồn từ thời Yayoi, khi nghề trồng lúa lần đầu tiên du nhập vào Nhật Bản. Trồng lúa sau này trở thành hình thức nông nghiệp chính, và đã phát triển thành làng. Khi nhiều ngôi làng hình thành và bắt đầu lan rộng, trung tâm của ngôi làng được gọi là Nakamura.

Tùy thuộc vào hướng cơ bản mà ngôi làng mới thành lập thì nhiều Họ mới lại xuất hiện. Ví dụ, các Họ như: Kitamura “Làng phía Bắc”, Nishimura “Làng phía Tây” được hình thành theo cách đó.

Người nổi tiếng mang họ Nakamura là Nakamura Kiharu. Không chỉ là bông hoa xinh đẹp của “xứ Phù Tang”, Nakamura Kiharu còn sở hữu một loạt kỷ lục: người phụ nữ Nhật đầu tiên lấy được bằng phi công, từng tiếp đón nhiều nhân vật nổi tiếng và là Geisha đầu tiên có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.

9. Yamada

Có hơn 981.000 người mang Họ “Yamada” trên toàn nước Nhật. Yama có nghĩa là “núi”, “ta” có nghĩa là “ruộng lúa”. Theo nghĩa đen, Yamada có nghĩa là “những cánh đồng lúa trên núi”.’

Người nổi tiếng mang Họ “Yamada” là Takayuki Yamada nổi tiếng quốc tế nhờ vai diễn Tamao Serizawa trong loạt phim Crows Zero.

10. Saito

Có khoảng 890.000 người Nhật mang Họ “Saito”. Trong tiếng Nhật, “Sai” có nghĩa là “phục vụ các vị thần bằng cách thanh lọc cơ thể và linh hồn” và “to” có nghĩa là “hoa tử đằng”. Giống như Họ “Sato”, gốc rễ của Họ “Saito” cũng liên quan nhiều đến gia tộc Fujiwara (Ông Fujiwara). Một thành viên của gia tộc Fujiwara từng là giám đốc của Saigu-ryo, một Văn phòng Chính phủ gần Đền Ise ở quận Mie. Họ “Saito” được cho là bắt đầu bằng “Fujiwara của Saigu-Ryo”. 

Người nổi tiếng mang Họ “Saito” có thể kể đến là Yuki Saito, nữ diễn viên sinh ra ở Yokohama là ngôi sao của nhiều bộ phim và một loạt phim truyền hình Nhật Bản.

Trái ngược với 10 Họ phổ biến, ở Nhật Bản cũng có nhiều Họ hiếm. Dưới đây là 6 Họ có số lượng ít nhất tại Nhật Bản nhưng lại có ý nghĩa cực độc đáo:

1. Myouga (440 người)

Myouga có nghĩa là “Gừng” trong tiếng Nhật. Đây là loại gia vị quý tại “xứ sở Phù Tang”, chỉ xuất hiện vào mùa hè và đầu mùa thu hằng năm. Đặc điểm của gừng Nhật Bản là có màu đỏ, hương thơm rất dễ chịu, tương tự như lá bạc hà, được sử dụng rất phổ biến trong các món ăn truyền thống như: súp miso, mì lạnh,…

2. Jinja (330 người)

Jinja có nghĩa là “đền thờ thần đạo”. Tại nước Nhật có đến 70% dân số theo thần đạo, vì vậy cũng rất dễ hiểu khi rất nhiều người Nhật có họ chứa chữ “thần – 神”, nhưng “Jinja” lại là một Họ cực hiếm gặp.

3. Senjou (120 người)

“Senjou” là từ cổ trong tiếng Nhật chỉ các thầy dạy kiếm đạo. Có thể, tổ tiên của Họ “Senjou” xuất thân là người dạy kiếm đạo. Ngoài ra, theo ký tự Kanji thì cũng có thể hiểu là “Sensei” tức giáo viên, bác sĩ hay những người có kiến thức uyên thâm.

4. Kyoto (90 người)

Thành phố Kyoto thì rất nổi tiếng nhưng có lẽ ít người biết rằng có dòng họ cũng mang tên “Kyoto”. Nhiều giả thuyết cho rằng tên gọi của dòng họ này được bắt nguồn từ chính thành phố Kyoto – cố đô một thời của Nhật Bản.

5. Dango (10 người)

Dango là dòng họ hiếm và có cái tên độc đáo nhất ở Nhật Bản – “bánh nếp ăn cùng nước tương”. Đây là tên gọi của một loại bánh tương tự như Mochi và là một trong những món ăn được yêu thích, đặc biệt vào dịp Trung thu tại Nhật Bản. Có lẽ, người lập ra dòng họ “Dango” rất yêu thích loại bánh nếp này chăng?

6. Mikan (10 người)

Với số lượng người chỉ dừng lại ở con số 10, dòng họ Mikan cũng được rất nhiều người biết đến với ý nghĩa độc đáo của mình – “Cam Nhật Bản”. Đây là giống cam không hạt, đậm vị ngọt và có một chút chua nhẹ, là một trong những loại quả được yêu thích nhất mùa thu đông ở Nhật Bản.

Có một lịch sử lâu đời về các “Họ” khác nhau ở Nhật Bản, tất cả đều ra đời theo nhiều cách khác nhau. Nguồn gốc của các “Họ” này có thể bắt nguồn từ nghề nghiệp, địa hình, phong cảnh, địa danh và thậm chí cả hướng đi. 

Văn hóa “xứ Phù Tang” quả thật có rất nhiều điều thú vị. Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, du khách hãy dành thời gian khám phá và trải nghiệm nhiều hơn về nét văn hóa đặc sắc này nhé! Chúc du khách có một chuyến đi vui vẻ!

Tứ Đại Thần Thú bảo hộ bốn phương trong thần thoại Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia sở hữu một kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc và phong phú, với những huyền thoại và sự tích li kì. Niềm tin vào con vật linh thiêng và linh hồn là một trong những chủ đề phổ biến nhất của tín ngưỡng dân gian Nhật Bản. Trong đó, nổi tiếng nhất là Tứ Đại Thần Thú bảo vệ bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Tứ Đại Thần Thú còn được gọi là “Tứ Tượng” hay “Tứ Thánh Thú” bao gồm: Seiryu (Thanh Long) của phương Đông, Suzaku (Chu Tước) của phương Nam, Bạch Hổ (Byakko) của phương Tây và Huyền Vũ (Genbu) của phương Bắc. Theo truyền thuyết thì chúng là do linh khí của buổi sơ khai tụ lại mà thành, đại biểu cho ý chí của Trời và Đất, mang trọng trách trông coi và bảo vệ thế giới này, tránh để nó bị hủy diệt. Mỗi thánh thú cai quản một phương và tượng trưng cho một mùa, chúng có những đặc điểm và nguồn gốc riêng. 

1. Seiryu

Seiryu được sinh ra trong thời kỳ hỗn độn, do linh khi thiên địa tích tụ mà thành, là linh thú đứng đầu trong Tứ Đại Thần Thú, là biểu tượng cho sự cao quý vĩnh hằng. Tương truyền, hiện thân của Seiryu là một con rồng mang hai màu xanh dương và xanh lục. 

Seiryu có sức mạnh, trí tuệ và quyền uy bậc nhất bởi nó là sự kết hợp từ những đặc điểm mạnh nhất của muôn loài như: đầu rắn, mình hổ, bờm sư tử, trên đầu mọc thêm sừng hươu, mào gà, đuôi giống thằn lằn, tứ chi mọc vuốt chim ưng, toàn thân được bao phủ bởi tầng tầng vảy cá, có thể đi lại tự nhiên trên đất liền, lại có thể bay thẳng lên trời, nuốt gió phun mưa.

Seiryu là biểu tượng của sự hùng mạnh và vĩ đại, nó tỏa ra sức mạnh đáng sợ và bất bại, luôn được yểm trợ bởi những đám mây. Khi thời đại của thánh nhân bắt đầu, tiên giới được thành lập thì Seiryu trở thành thần thú trấn thủ Phương Đông trấn áp tà ma xâm nhập tiên giới, nó trở thành biểu tượng cao quý biểu trưng cho quyền uy tuyệt đối trong tín ngưỡng của người Châu Á nói chung và người Nhật nói riêng.

Thần Seiryu trấn giữ phía Đông của Nhật Bản. Tại Đền Kiyomizu-dera nằm ở phía Đông thành Kyoto, người ta dựng một bức tượng rồng ngay lối vào và tổ chức lễ hội hàng năm, nhằm tôn vinh vị linh thú hộ mệnh. Truyền thuyết còn kể rằng có lần Seiryu đã hiện ra uống nước từ thác nước của ngôi đền.

2. Byakko

Hiện thân của vị thần thú là một con hổ trắng, và cái tên “Byakko” (Bạch Hổ) cũng có ý nghĩa như vậy. Byakko được sinh ra trong thủa hỗn độn hồng hoang, sinh ra từ lúc vũ trụ sơ khai Bạch Hổ hấp thụ linh khí của trời đất, nó nhanh nhẹn, mạnh mẽ, có sức mạnh uy nghiêm và năng lực chiến đấu vượt trội, có thể trấn áp tất cả các loài. Byakko có tính cách đặc trưng là kiên nhẫn nhưng rất dứt khoát. Giống như Seiryu, khi thiên giới thành lập với sức mạnh uy nghiêm, Byakko trở thành một trong Tứ Đại Thần Thú lãnh trọng trách trấn giữ phương Tây, thu phục tà ma ác quỷ.

Byakko nắm giữ yếu tố kim loại, điều khiển gió và đại diện cho mùa thu. Theo truyền thuyết, thần hổ bảo vệ cho chân lý và sự công bình của loài người. Thần cũng chính là biểu tượng cho sự công bằng và lòng dũng cảm.

Thần hổ không chỉ hỗ trợ quân đội của Hoàng đế chống lại kẻ thù, mà còn chiến đấu với ma quỷ đe dọa người chết trong mồ mả của họ. Vì vậy, trong nghi lễ chôn cất và thờ cúng của giới quý tộc cổ đại như nhà vua và các tướng lĩnh, luôn xuất hiện hình ảnh thần Byakko. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những bức tranh vẽ hình hổ trắng trên những ngôi mộ ở Nara.

3. Suzaku

Suzaku được cho là đẹp và lộng lẫy nhất trong bốn vị linh thú. Suzaku xuất hiện dưới hình dạng chim phượng hoàng với đôi cánh sải rộng, đuôi dài và đỏ thẫm. Vị thần này thường bị nhầm lẫn với những linh thú có vẻ ngoài tương tự trong truyền thuyết các nước, như phượng hoàng Hoo của Trung Quốc hay chim Garuda của Ấn Độ. Không có bằng chứng nào đủ thuyết phục để nói rằng những sinh vật này có mối quan hệ với nhau.

Suzaku sinh ra đã có lòng đại từ, đại bi, bao la quảng đại sẵn sàng quên mình vì nghĩa, vì cứu giúp muôn sinh hỏa quang trên thân nó có khả năng xoa dịu sự cô độc, đau khổ, bi thương. Lông vũ của nó có thể cải tử hoàn sinh, nước mắt của nó có thể hồi sinh cho những sinh vật đã chết. Vì có đức hy sinh, từ bi bao la quảng đại nên khi chết, Đại Bi Tâm của Suzaku có thể phát ra Đại Linh Quang, ánh linh quang hóa thành Tứ Đại Bất Diệt rồi từ đống lửa tro tàn Suzaku có thể hồi sinh, niết bàn từ thân xác đã chết. Là một trong Tứ Đại Thần Thú, Suzaku trên giữ phương Nam ứng với mùa Hạ.

Các kinh đô cổ ở Nhật Bản như: Fujiwara, Heijo và Heian đều có các cổng phía Nam (Suzakumon – Cổng Suzaku) được bảo vệ bởi biểu tượng của Suzaku. Tuy nhiên, ngày nay, những cánh cổng này không còn được nhìn thấy nữa. 

4. Genbu

Cái tên “Genbu” có nghĩa là “chiến binh bóng đêm”. Vị thần này hiện diện trong hình dáng của một con rùa khổng lồ, quấn quanh là một con rắn với chiếc đuôi cực dài. Vỏ rùa là một biểu tượng của trời đất. Phần bằng phẳng bên dưới tượng trưng cho mặt đất, phần vòm cong bên trên là các tầng trời.

Rùa đại diện cho sự trường sinh bất tử, trong khi rắn lại là hóa thân của sự khôn ngoan, linh hoạt, sự sinh sản dồi dào. Hai loài vật cùng tồn tại trong một thực thể, chính là sự cân bằng âm dương. Màu sắc thường thấy của Genbu là màu đen, nhưng khi cần thích nghi trong một số hoàn cảnh, thần cũng biến hóa thành màu vàng hoặc tím.

Thần Genbu điều khiển nguyên tố nước và thống trị vào mùa đông. Cũng như các vị linh thú khác, thần nắm giữ 7 trong số 28 chòm sao, chiếm một phần tư bầu trời. Thần Genbu trấn giữ ở phía Bắc Cung điện Hoàng gia Kyoto, mang năng lượng âm – nguồn năng lượng của bóng tối. Sở hữu chiếc mai rùa trông như một chiếc áo giáp sắt, Genbu còn được coi là một vị thần chiến binh.

Trên đây là Tứ Đại Thần Thú mà người Nhật sùng kính, thờ phụng. Theo thời gian, những yếu tố ly kỳ được thêm thắt xung quanh bốn thần thú bảo hộ, tạo nên những câu chuyện hấp dẫn, ly kỳ.

Cũng chính vì thế mà không chỉ tồn tại trong thần thoại, truyền thuyết, ngày nay, Tứ Đại Thần Thú còn xuất hiện trong tiểu thuyết, manga, anime, trò chơi điện tử,… của Nhật Bản và trở nên phổ biến trong đời sống tinh thần người dân. Tiêu biểu có thể kể đến các Anime như: “Fushigi Yugi” và “Yu Yu Hakusho” hay trong nhiều game, mà nổi tiếng nhất là “Final Fantasy XI” đều có sự xuất hiện của Tứ Thần.

Văn hóa “xứ Phù Tang” nói chung quả thật có rất nhiều điều thú vị. Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, du khách hãy dành thời gian khám phá và trải nghiệm nhiều hơn về nét văn hóa đặc sắc này nhé! Chúc du khách có một chuyến đi vui vẻ!

Ở Nhật Bản không có cửa hàng ăn sáng

Cửa hàng ăn sáng là hình thức kinh doanh phổ biến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Thế nhưng, tại Nhật Bản, các quán bán đồ ăn sáng lại rất hạn chế. Phải chăng vì người Nhật không bao giờ ăn sáng, không coi trọng bữa ăn này?

Có lẽ, nhiều người nghĩ rằng vì người Nhật không có nhu cầu về bữa sáng nên mới không có hàng quán nào mở ra phục vụ họ. Câu trả lời trái ngược hoàn toàn: Vì họ quá coi trọng bữa sáng. Người Nhật cực kỳ quan tâm đến việc duy trì sức khỏe và đánh giá rất cao ảnh hưởng của chế độ ăn với sức khỏe. Với họ, bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày.

Tuy vậy, ở Nhật Bản không có cửa hàng ăn sáng, đó là do đặc thù về thói quen làm việc của người dân nơi đây. Người Nhật làm việc rất muộn, thường xuyên tăng ca đến tận khuya. Thậm chí khi rời công sở, họ cũng không về nhà ngay mà còn đến quán rượu, tham dự những bữa tiệc xã giao với sếp và đồng nghiệp – những bữa tiệc hầu như vì mục đích công việc. Do đó, với hầu hết các gia đình, bữa sáng là thời điểm duy nhất trong ngày mà các thành viên có thể ngồi lại với nhau, cùng nhau thưởng thức bữa cơm gia đình, hưởng thụ không khí đoàn viên.

Người Nhật đặc biệt quý trọng bữa sáng và muốn tạo ra môi trường tốt nhất để tận hưởng nó cùng người thân, tại nhà. Các bà nội trợ Nhật Bản thường dậy rất sớm để chuẩn bị bữa sáng cho gia đình. Bữa sáng truyền thống của họ thường có một món nước trái cây cùng ba món đơn giản là: súp miso, thịt, món chay và các sản phẩm từ đậu nành. Đây đều là những món các gia đình tự làm nên cũng khó mua ở cửa hàng.

Tóm lại, đại đa số người Nhật ăn bữa sáng tự nấu tại nhà, do đó ở nước này gần như không có cửa hàng phục vụ bữa sáng. Các nhà hàng, quán ăn thường mở cửa từ 11h.

Bên cạnh đó, điều mọi người đều biết, Nhật Bản là một quốc gia có diện tích hạn chế, dân số không quá đông đúc, dẫn đến việc giá đất rất cao. Điều này cũng dẫn đến việc tiền thuê cửa hàng cũng vô cùng đắt đỏ.

Nếu xem xét mặt lợi nhuận, việc kinh doanh đồ ăn sáng thường không mang lại lợi nhuận quá lớn. Mặc dù có thể dựa vào lợi nhuận nhỏ nhưng lưu động nhanh, nhưng khi phải đối mặt với các chi phí như tiền thuê cửa hàng, tiền điện nước và các khoản chi khác, thì thực tế là lợi nhuận thường không quá đáng kể.

Mặc dù vậy, vẫn tồn tại các cửa hàng tiện lợi ở Nhật Bản. Đồ ăn trong mỗi cửa hàng tiện lợi rất nhiều và đầy đủ. Nhân viên văn phòng thường ăn sáng ở cửa hàng tiện lợi, hoặc để nhân viên hâm nóng rồi mang đến công ty ăn.

Văn hóa và đời sống của người dân “xứ Phù Tang” quả thật có rất nhiều điều thú vị. Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, du khách hãy dành thời gian khám phá và trải nghiệm nhiều hơn về nét văn hóa đặc sắc này nhé! Chúc du khách có một chuyến đi vui vẻ!

Văn hóa Karaoke thú vị của người Nhật

Karaoke là một hình thức giải trí phổ biến trên toàn thế giới xuất hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1970. Trải qua nửa thập kỷ, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã có rất nhiều trò chơi giải trí mới lạ khác được ra đời, nhưng karaoke vẫn luôn là lựa chọn số một mỗi khi người Nhật muốn thư giãn và giải trí.

Karaoke rất phổ biến đến nỗi du khách có thể bắt gặp ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nhưng nếu có cơ hội được đặt chân đến Nhật Bản – quê hương của loại hình giải trí này thì du khách nên thử trải nghiệm chúng ít nhất một lần. Du khách sẽ phát hiện ra có rất nhiều điều mới lạ và khác biệt so với Karaoke của đất nước mình. Dưới đây là một vài nét độc đáo trong văn hóa Karaoke của người Nhật:

  • Nguồn gốc của Karaoke tại Nhật Bản

Karaoke là từ ghép tiếng Nhật giữa từ “kara” có nghĩa là “trống rỗng”, và “oke” là từ viết tắt của “ōkesutora” có nghĩa là “ban nhạc”. Thường thì một bài hát được thu thanh bao giờ cũng có cả phần âm và phần nhạc đệm. Karaoke lần đầu tiên được biết đến là tại một quầy bar ở thành phố Kobe. 

Theo như một câu chuyện được kể lại thì tại quán bar này, trong một buổi biểu diễn, khi cây ghita không đến chơi được vì bị ốm hay vì lý do nào đó, người chủ quầy đã chuẩn bị những bǎng nhạc thu thanh sẵn và ca sĩ lại hát theo băng. Đây chỉ là một câu chuyện truyền miệng nhưng đó chính là sự khởi nguồn của Karaoke và trở nên phổ biến như bây giờ. 

Thuật ngữ Karaoke mặc dù được phát âm khác nhau giữa các quốc gia khác nhau nhưng đã được chấp nhận và trở thành ngôn ngữ chung cho cả thế giới. Từ “Karaoke” bây giờ không chỉ nằm trong những cuốn từ điển của Nhật Bản mà nó còn có mặt trong từ điển tiếng Anh Oxford được xuất bản mới đây nhất.

Truyền miệng của dân gian Nhật có câu: “Thời trang bắt nguồn từ Kobe”. Thời trang của những người phụ nữ trẻ lần đầu được công nhận cũng chính tại Kobe và sau này đã trở nên thịnh hành ở Tokyo. Bởi vậy mà những tạp chí thời trang luôn được phụ nữ Kobe theo dõi sát sao. Đây chính là nơi tốt nhất để chúng ta tìm hiểu về Karaoke Nhật Bản.

Kể từ khi bến cảng của thành phố này mở cửa cho việc giao lưu thương mại quốc tế năm 1868, thời điểm triều đại Minh Trị chuẩn bị được phục hồi. Kobe đã dẫn đầu trong việc tiếp nhận sự giao lưu quốc tế và có nhiều người nước ngoài đã đến đây sinh sống.

Những khu nhà được xây theo phong cách Tây và các lễ hội nhạc Jazz được tổ chức hàng nǎm chứng tỏ Kobe là thánh địa của những người yêu thể loại nhạc này. Bởi vậy, phải chăng sự phổ biến âm nhạc đã hàm chứa trong nó sự ra đời của Karaoke?

  • Karaoke – nền tảng của sự phát triển

Nguời Nhật vốn rất thích tiệc tùng. Từ xa xưa, tiệc đã trở nên linh đình khi mà một ai đó cất tiếng hát và những người xung quanh vỗ tay theo làm cho bầu không khí trở nên sôi động, vui vẻ, đầy phấn khích. Người ta không để ý đến việc người hát hát có hay không, thậm chí bài hát bị hát sai nhạc điệu cũng có thể làm cho bữa tiệc vui nhộn hơn.

Có được bầu không khí và phong tục này đã khiến cho người Nhật trở nên cởi mở hơn khi họ nghe người khác hát. Họ cũng thoải mái hát trước đám đông mà không miễn cưỡng hay e ngại. Đây cũng chính là một trong những lý do giải thích tại sao Karaoke lại được phổ biến rộng rãi ở Nhật Bản.

  • Đổi mới công nghệ và những quán Karaoke

Lúc đầu, Karaoke chỉ là một phương tiện giải trí cho những người làm kinh doanh ở Nhật Bản nhưng nó đã nhanh chóng phát triển rộng khắp nhờ có công nghệ mới và loại hình kinh doanh mới có tên gọi “các quán Karaoke”.

Đầu tiên, Karaoke Nhật Bản khi mới xuất hiện dưới dạng băng đã thu thanh sẵn sau đó chuyển thành đĩa CDs giúp cho việc chọn bài hát trở nên dễ dàng hơn nhiều. Sự phát triển này dẫn đến sự ra đời ở một mức cao hơn đó là có hình ảnh phù hợp với ý nghĩa bài hát, được hiện lên cùng với lời nhạc. Cả những ai không thuộc lời cũng có thể hát theo một cách chuyên nghiệp.

Karaoke đã trở thành ngành công nghệ giải trí chủ chốt. Karaoke gia đình cũng trở nên phổ biến và thịnh hành hơn. Mọi người chỉ cần ở nhà cũng được giải trí một cách thoải mái. Tuy nhiên, có một trở ngại trong công việc kinh doanh loại hình giải trí này đó là hầu hết các ngôi nhà ở Nhật Bản đều nằm san sát nhau và được xây dựng bằng gỗ, mái che cách âm không tốt, do vậy sẽ gây khó chịu cho những người hàng xóm khi hát Karaoke vào buổi tối.

Chính vì lý do này mà các doanh nghiệp đã phát triển thêm loại hình mới, đó là các “quán Karaoke”. Các quán này gồm những phòng biệt lập làm cách âm chỉ để dành cho việc hát. Quán karaoke đầu tiên xuất hiện vào năm 1984 tại một cánh đồng ở vùng quê Okayama, phía Tây của vùng Kobe. Nó được xây dựng chỉ từ một chiếc ô tô cải tiến.

Do khi hát karaoke thì lời bài hát sẽ hiện lên trên màn hình nên nhiều quốc gia đã coi nó là phương tiện hữu hiệu trong việc nâng cao tỉ lệ những người biết chữ. Nó đã trở thành một công cụ giáo dục hữu ích.

  • Hát Karaoke “xuyên đêm” với mức giá siêu rẻ

Trung bình các quán Karaoke ở Nhật Bản thường có giá từ 100 – 500 Yên/30 phút, một số nơi giá có thể rẻ hơn hoặc đắt hơn tùy theo các khung giờ khác nhau trong ngày.

Ngoài ra, còn một điểm đặc biệt nữa ở Nhật Bản là các quán Karaoke tại đây thường có một khung giờ gọi là “Freetime”, nghĩa là khách chỉ cần trả một số tiền nhất định và có thể hát thoải mái trong khoảng thời gian này. Thông thường các quán Karaoke sẽ có 2 khung giờ Freetime vào ban ngày từ khoảng 10:00 – 19:00 và ban đêm từ 22:00 – 5:00 sáng ngày hôm sau. Giá hát Freetime buổi đêm thông thường sẽ cao hơn một chút vì đây là khoảng thời gian có nhiều người đi hát, nhưng sẽ giao động trong khoảng từ 900 – 1.500 Yên tùy mỗi quán. So với việc hát theo giờ thì nếu khách hát liên tục trong khoảng 5-6h thì mức giá Freetime kia chẳng phải là quá rẻ hay sao? Với những ai đam mê ca hát và luôn cảm thấy thiếu khi đi hát Karaoke bình thường thì Freetime là một lựa chọn hoàn hảo!

  • Thanh toán trước khi vào hát

Có nhiều quán Karaoke ở Nhật Bản thường yêu cầu khách hàng phải thanh toán trước khi vào hát. Nếu hát tính giờ bình thường, khách sẽ phải tính toán trước xem sẽ hát mấy tiếng để tính tiền và thanh toán luôn. Việc này giúp cho các quán kiểm soát được thời gian hát của khách hàng, và trong thời điểm đông khách những người đến sau có thể biết được là họ cần phải chờ bao lâu để tới lượt mình. Tuy nhiên, với những người đi hát cách thanh toán này đôi khi hơi bất tiện, bởi trong trường hợp khách muốn hát thêm khách buộc phải gia hạn thêm thời gian. Với những ai lựa chọn khung giờ Freetime, chỉ việc trả theo mức giá đã quy định và hát đến khi hết giờ hoặc đến khi nào không hát được nữa thì thôi.

Bên cạnh đó, vẫn có nhiều quán Karaoke cho phép khách thanh toán sau, điều này giúp cho khách có thể hát hò thoải mái hơn, về sớm hoặc về muộn tùy thích mà không bị gò bó bởi khung giờ đã chọn trước đó.

  • Đăng ký thành viên để được giảm giá

Khi đi hát Karaoke ở Nhật Bản, nhân viên tại quán sẽ hỏi khách xem đã đăng ký thành viên chưa, bởi nếu là thành viên của quán, khách sẽ được giảm giá từ khoảng 50 – 100 Yên so với giá thông thường. Việc đăng ký này cũng vô cùng đơn giản và thường chỉ mất 1-2 phút, đa số thường đăng ký qua LINE bằng cách chụp mã QR của quán. Ngoài ra, với những bạn sinh viên, khi cầm theo thẻ sinh viên cũng sẽ được hưởng một mức giá ưu đãi hơn.

  • Đồ uống tại quán Karaoke: “One drink” và “Drink bar”

Có một số quán Karaoke sẽ có quy định “One drink” bắt buộc một người khi vào hát phải gọi một đồ uống bất kỳ. Giá của món đồ uống này chưa có trong tiền phòng và sẽ được tính riêng. Thông thường, đây là quy định bắt buộc khi khách lựa chọn hát tính tiền theo giờ.

Còn đối với những người hát trong khung giờ Freetime, đa số sẽ chọn “Drink bar” (uống không giới hạn hay còn gọi là “Nomihodai”) vì cách này là rẻ nhất, khách có thể uống thỏa thích để có sức “chiến đấu” đến tận sáng hôm sau.

Thông thường sẽ có 2 kiểu lựa chọn đồ uống như vậy, tuy nhiên, hiện nay các quán Karaoke ở Nhật Bản cũng khá linh hoạt trong việc phục vụ đồ uống. Nhiều nơi, khách có thể tự do lựa chọn có gọi đồ uống hay không bất kể hát theo hình thức nào. Hay một số nơi, giá tiền hát Freetime đã bao gồm tiền đồ uống “Drink bar” trong đó và được chia thành các lựa chọn khác nhau như: đồ uống có cồn, nước ngọt, hoặc cả hai. Có rất nhiều món đồ uống đa dạng khác nhau từ nước hoa quả, sinh tố, trà sữa cho đến các loại rượu, cocktail, sẽ khiến bạn mất khá nhiều thời gian để quyết định xem nên lựa chọn món nào đó.

  • Đồ ăn với nhiều lựa chọn đa dạng

Không giống như các quán Karaoke ở Việt Nam, đồ ăn vặt được đặt sẵn ở trong phòng hát, tại Nhật Bản khách sẽ phải gọi món giống như ở các cửa hàng. Tại đây, khách có thể gọi đồ qua chiếc Intercom gắn trên tường. Bên cạnh đồ uống thì đồ ăn tại các quán Karaoke ở Nhật Bản cũng vô cùng đa dạng bao gồm các món như: Pizza, xúc xích, Gà rán (Karaage), Salad, Takoyaki, Okonomiyaki, các món mì,… Nhiều quán còn có cả những set party dành cho những nhóm muốn tổ chức tiệc tại quán. 

  • Hitokara (Hát karaoke một mình)

Không chỉ có những quán Karaoke thông thường, tại Nhật Bản còn có một mô hình Karaoke độc đáo khác gọi là “Hito-kara” – Karaoke một người. Hẳn du khách cảm thấy ngạc nhiên với việc đi hát Karaoke một mình, nhưng ở Nhật Bản đây là điều hết sức bình thường và có rất nhiều quán Karaoke ra đời phục vụ nhu cầu này của người dân.

Nếu xét về các trang thiết bị thì các quán Hitokara này đôi khi còn được đánh giá cao hơn những quán Karaoke thông thường. Ở một số quán có trang bị tai nghe giúp người hát có thể cảm nhận giai điệu bài hát rõ hơn. Vừa nghe âm thanh trực tiếp vừa hát chắc chắn khách sẽ cảm thấy hào hứng và bùng nổ hơn trong từng vần điệu của lời bài hát. Bên cạnh đó, những chiếc mic điện dung (Condenser microphone) cũng được nhiều quán Hito-kara sử dụng thay cho những chiếc mic thông thường giúp việc thu âm trở nên hiệu quả hơn, âm thanh phát ra sẽ sắc nét và trong hơn. Ngoài ra, nếu khách muốn thu âm chính giọng hát của mình thì những quán Karaoke một người này cũng có đầy đủ thiết bị để khách có thể làm được điều đó.

Nhiều người Nhật rất thích đi hát Karaoke một mình bởi tại đó họ có thể thoải mái thể hiện bản thân, việc hát hay hay hát dở cũng không thành vấn đề. Hát karaoke một mình cũng giúp tiết kiệm thời gian hơn rất nhiều, vì không cần phải chờ đợi người khác hát xong để đến lượt mình. Bên cạnh không gian thoải mái, thì những trang thiết bị hiện đại cũng là một trong những điểm thu hút với những người đang tìm kiếm không gian để luyện giọng, bởi nhìn qua thì Hitokara trông không khác gì một “phòng thu không chuyên”. 

  • Lần lượt mỗi người một bài

Nếu đã từng đi hát với người Nhật, du khách sẽ phát hiện ra họ thường hát theo thứ tự lần lượt từng người một chứ không theo kiểu lộn xộn ai thích hát thì hát như ở Việt Nam. Việc hát theo kiểu “xếp hàng” như vậy cũng khá hay vì nó đảm bảo tất cả mọi người đều được hát số lượng bài như nhau. Ngoài ra, trong khi hát, người Nhật không có thói quen xen vào bài hát của người khác. 

  • Đừng quên vỗ tay!

Dù là người thân hay khách hàng, đồng nghiệp,… sau khi một người nào đó trình bày xong một bài hát thì mọi người sẽ vỗ tay để khuyến khích sự tự tin của người hát. Sự cổ vũ là vô cùng cần thiết!

  • Karaoke – Phòng nghỉ lý tưởng để ngủ qua đêm

Các quán Karaoke ở Nhật Bản phần lớn đều mở cửa đến 5 – 6 giờ sáng hôm sau, nên nơi đây trở thành chốn nghỉ chân qua đêm lý tưởng cho rất nhiều người, đặc biệt là những người đi làm về muộn hoặc vì một lý do nào đó bị lỡ mất chuyến tàu cuối cùng. Có rất nhiều lựa chọn nếu người Nhật bị lỡ chuyến tàu cuối như tìm kiếm một khách sạn giá rẻ hay một quán Cafe Internet, nhưng Karaoke có vẻ như là lựa chọn phổ biến hơn cả vì chúng khá phổ biến và chi phí cũng rất là rẻ. 

Du khách có cảm nhận thế nào về văn hóa Karaoke ở Nhật Bản? Chắc hẳn đã nhận ra nhiều điều khác lạ so với việc đi hát ở đất nước của mình đúng không nào? Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, du khách đừng quên trải nghiệm hoạt động thú vị này cùng hội bạn nhé!

10 món mì Ramen ngon – độc – lạ phải thử khi du lịch Nhật Bản

Nhắc đến ẩm thực Nhật Bản, không thể không kể đến món mì Ramen “huyền thoại”. Trên thực tế, mì ramen có nguồn gốc từ Trung Quốc và xuất hiện ở Nhật Bản khá muộn so với những món mì truyền thống khác. Nhưng thời gian trôi qua, món mì này đã được người Nhật biến thành một món ăn truyền thống của mình, với rất nhiều biến tấu “độc lạ”. 

Từ những những xu hướng thời trang cực chất đến ngành công nghệ đáng kinh ngạc, Nhật Bản tràn ngập sự kỳ quặc, lạ lùng và độc đáo. Văn hóa nổi tiếng này cũng ảnh hướng khá nhiều đến ẩm thực, và người ta có thể dễ dàng tìm thấy các món ăn địa phương kỳ lạ ở mọi ngóc ngách. Nếu du khách là một người thích phiêu lưu và muốn có những trải nghiệm mới lạ, hãy thỏa mãn sự tò mò đó bằng cách thử 10 món mì Ramen độc và lạ sau đây để thay thế những món ăn thông thường:

1. Ramen Cafe

Các nhà hàng Ramen ở Nhật Bản chứng minh sức sáng tạo vượt ngoài tưởng tượng khi chế ra món Ramen Cafe. Nhiều người còn nói đùa rằng Ramen Cafe sẽ trở thành món ăn sáng lý tưởng vì sau khi ăn hết phần cái, thực khách có thể thưởng thức phần nước lèo như một ly cafe buổi sáng, nạp năng lượng cho ngày làm việc bận rộn.

Tại Tokyo, món ăn đặc biệt này được phục vụ ở Aroma (2-19-16, Takaramachi, Katsushika-ku, Tokyo), một quán cafe truyền thống Nhật Bản đẹp quyến rũ. Bầu không khí tuyệt vời nơi đây sẽ khiến du khách cảm thấy dễ chịu và chắc chắn du khách sẽ cảm thấy vô cùng hào hứng khi bát mì Ramen Cafe của mình được đem đến.

Ở quán này, món mì Ramen thực sự là một kiệt tác với những miếng trứng luộc, kamaboko (chả cá hấp), chuối, xúc xích salami và thậm chí cả kem được xếp thành một hình mặt cười. Cả mì và nước dùng đều được làm bằng cafe đem đến cho thực khách một bát mì có hương vị đậm đà. 

2. Ramen Chocolate

Để nâng cấp món mì Ramen truyền thống, Mensho Tokyo (1-15-9, Kasuga, Bunkyo, Tokyo) đã tạo ra một sự kết hợp nhanh gọn cho món mì này sử dụng một loại nước dùng làm từ Chocolate và nước thịt hầm thay vì nước dùng thông thường. Món mì sau đó sẽ được thêm vào chút hành lá, vài lát thịt lợn, và thậm chí chút vụn Chocolate.

3. Ramen kem

Tại “xứ Phù Tang” có hàng trăm công thức chế biến món mì Ramen khác nhau đến từ mọi nơi trên đất nước, trong đó nổi lên một số loại Miso Ramen.

Để thay đổi hương vị của mì Ramen, người đầu bếp sẽ chọn các loại nước dùng khác nhau và lần này thì thành phần được sử dụng để làm nước dùng cho món ăn đó chính là Súp Miso. Tuy nhiên, một nhà hàng ở Osaka đã sáng tạo thêm, nâng tầm món Miso Ramen được nhiều người yêu thích. Nhà hàng Franken (3-chōme-5-3 Kitakyūhōjimachi, Chuo Ward, Osaka) đã làm nên bát mì Ramen độc lạ bằng việc kết hợp thêm một chút nhân là chiếc kem mềm tan chảy. Franken đã thử nghiệm tạo ra rất nhiều loại món tráng miệng và thật bất ngờ khi sự kết hợp giữa Miso Ramen và phần kem mềm lại tương thích tạo ra món ăn được nhiều người yêu thích.

Bản thân món mì Ramen này được làm từ Súp Miso và tương ớt đỏ Gochujang, đồng thời cũng chứa các thành phần chiết xuất từ ​​thịt lợn, thịt bò và thịt gà.

Đây không phải là bước đột phá đầu tiên của Nhà hàng Franken khi chọn kết hợp mì Ramen với một loại hương vị khác. Năm 2021, họ cũng đã thu hút rất nhiều sự chú ý với một món Miso Ramen kết hợp với kẹo bông độc nhất vô nhị.

4. Matcha Paitan Ramen

Tại Nhà hàng Mensho San Francisco (Tầng 7, Shinjuku Mylord, 1-1-3, Nishi Shinjuku, Shinjuku-ku, Tokyo), du khách sẽ có cơ hội thử qua món “Matcha Paitan Ramen” (mì Ramen trà xanh). Đây là một trong những món ăn được yêu thích nhất tại nhà hàng nổi tiếng này. 

Khác với những món mì Ramen thông thường khác, Matcha Paitan Ramen trông khá bắt mắt với một màu xanh lá cây độc đáo. Để tạo được một màu xanh ấn tượng như vậy, Mensho San Francisco đã thêm một chút bột trà xanh vào nước dùng. Lượng bột được thêm vừa đủ, không làm mất đi vị ngọt từ xương hầm, khiến nước dùng mì không những thơm ngon mà còn đẹp mắt. Không chỉ nổi bật với cách trang trí rất ấn tượng và tinh tế, món Matcha Paitan Ramen còn khiến thực khách phải hài lòng với sự kết hợp tuyệt vời của những sợi mì dai, cùng với nước dùng sánh, thơm ngon, đậm vị. Mì ăn kèm với trứng lòng đào thơm ngậy cùng thịt lợn thái lát được hầm theo tiêu chuẩn đặc biệt của nhà hàng. 

5. Ramen xanh da trời

Có thể nhận thấy, những món ăn có màu xanh da trời khá hiếm trong thế giới ẩm thực nhưng món mì Ramen màu xanh da trời được phục vụ ở quán Kipposhi (1-11-5, Jinnan, Shibuya-ku, Tokyo) sẽ gợi cho du khách một cảm giác yên bình êm dịu và du khách sẽ muốn bỏ qua hết sự e dè và hân hoan ăn sạch cả bát mì.

Bếp trưởng của Kipposhi muốn tạo nên một thứ gì đó gợi nhớ cho khách hàng của mình về những bãi biển Hawaii xanh trong nên ông đã thêm vào nước dùng một chút bột màu tự nhiên từ tảo xoắn xanh. Người ta cho rằng tảo xoắn xanh có đặc tính chống lão hóa và chống oxy hóa nên món mì ramen xanh này không chỉ xứng đáng là món ăn hấp dẫn để đăng lên Instagram mà còn là một món ăn tốt cho sức khỏe nữa.

Món mì ramen xanh của Kipposhi đi kèm một vài miếng thịt gà mềm ngon, chút rau tươi và một quả trứng luộc ngon tuyệt. Một bát mì như vậy ở Kipposhi chỉ có giá 900 Yên.

6. Ramen Chanh

Khí hậu của Nhật Bản rất thích hợp để trồng các loại trái cây có múi. Chính bởi vậy quán Rinsuzu Shokudo (5-7-3, Ojima, Koto-ku, Tokyo) đã quyết định phục vụ món mì Ramen Chanh độc đáo. Món ăn này chắc chắn sẽ được lòng hội thích ăn đồ chua.

Món mì Ramen Chanh không chỉ đặc biệt nhờ hương vị chua chua lạ miệng mà còn thu hút rất nhiều “tín đồ” ăn uống bởi cách trang trí đầy thẩm mỹ. Du khách sẽ ấn tượng bởi lớp chanh phủ đầy trên bề mặt tô mì và chắc chắn sẽ bất ngờ khi nếm thử và phát hiện ra vị chanh rất hợp với nước hầm gà. Du khách sẽ cảm nhận được vị chua chua của chanh ngấm vào từng sợi mì Ramen. Nếu du khách muốn thưởng thức mì Ramen Chanh “trọn vị” hơn, có thể kết hợp với món gà Tempura tẩm bột chiên đặc biệt hấp dẫn. 

7. Ramen Dứa

Nếu như chanh được dùng trong món mì Ramen ở quán Rinsuzu Shokudo, thì quán Papapapapine (3-1-4, Haramachida, Machida-ku, Tokyo) cũng tìm được một cách riêng để sử dụng hoa quả trong món ăn của mình. Du khách có thể không nghĩ rằng dứa và mì kết hợp được với nhau để tạo thành món ăn, nhưng những đầu bếp chuyên nghiệp ở Papapapapine đã tìm ra được cách.

Sáng tạo trong việc chế biến không chỉ dừng lại ở việc cho thêm một vài khoanh dứa. Ở đây họ còn có những bước tiến rất xa trong việc khai thác tất cả hương vị ngọt ngào lẫn chua chua của quả dứa. Ở quán Papapapapine, không chỉ mì Ramen được nấu với một chút nước ép dứa mà cả những quả trứng luộc vừa chín tới cũng được ngâm trong nước dứa.

Món mì Ramen Dứa này còn có cả thịt lợn xá xíu và lá rong biển khô Nori. Hương vị nhiệt đới tươi mát của dứa tương phản một cách thú vị với vị đậm đà của món ăn mặn mang đến cho bát mì Ramen một hương vị đậm đà độc đáo. 

8. Ramen Natto

Nếu muốn thử thách bản thân bằng cách ăn một số loại thực phẩm lên men nổi tiếng của Nhật Bản, du khách nên thử Ramen Natto (mì Ramen đậu tương lên men). Tại Tokyo, món ăn này được phục vụ bởi quán Ramen Horiuchi (1-4-7, Nishi Shinjuku, Shinjuku-ku, Tokyo).

Natto nổi tiếng có mùi đậm nồng nhưng mì Ramen Natto của Ramen Horiuchi đi kèm một quả trứng lòng đào tan chảy cùng Natto. Trứng và Natto quện vào nhau tạo nên một lớp màu vàng sóng sánh thực sự kích thích cảm giác thèm ăn của thực khách.

Có 2 phiên bản mì Ramen Natto cho thực khách lựa chọn tùy thuộc vào thời tiết, đó là mì nóng hoặc lạnh. Dù loại nào chăng nữa thì nước dùng xì dầu cùng trứng và Natto trộn lẫn sẽ tạo nên một sự kết hợp tuyệt vời cho món ăn. 

9. Ramen bánh nướng

Rất nhiều đầu bếp mì ramen ở Tokyo đã tham dự những cuộc thi nấu ăn để trình diễn tài năng của mình với những món mì Ramen sáng tạo và độc đáo. Một ví dụ tuyệt vời là món mì Ramen bánh nướng do đầu bếp của quán Uma Tsukemen (1-3-15, Nishisuna-machi, Tachikawa-shi, Tokyo) sáng tạo ra.

Thay vì phục vụ món mì Ramen trong một bát nước dùng nóng hổi, quán Uma Tsukemen phục vụ những chiếc bánh nướng hình mái vòm cùng một bát mì thơm ngon đi cùng. Thật thú vị biết bao khi chọc thủng chiếc bánh nướng và nhúng những sợi mì vào nước dùng bên dưới chiếc bánh!

Du khách có thể lựa chọn nước dùng từ 4 vị: nước hầm thịt lợn, tôm, cà ri và Miso. Sau khi ăn mì xong, du khách hãy nhâm nhi thưởng thức chiếc bánh nướng thơm giòn đã ngấm chút vị của nước dùng nhé!

10. Ramen Dế

Công ty sản xuất thực phẩm côn trùng Antcicada trụ sở tại Nhật Bản vừa kết hợp với đầu bếp sao Michelin Yuto Shinohara cho ra đời món ăn độc đáo: Koorogi Ramen (mì Ramen Dế). Sự kết hợp kỳ lạ này gây nên sự tò mò với nhiều tín đồ ẩm thực ở “xứ sở Phù Tang”.

Mì Ramen Dế tiếng được công ty Antcicada quảng bá tại các sự kiện thực phẩm trên khắp Nhật Bản, thậm chí còn từng được bán ở Phần Lan và Estonia.

Món mì Ramen này nổi tiếng khắp Tokyo với sợi mì được trộn với bột dế nghiền để đẫm hương vị. Các nhà sáng chế của công ty đã thử nghiệm nhiều lần với các loại dế và mì khác nhau, với những tỷ lệ khác nhau để tạo nên một hương vị dễ chịu nhất cho thực khách. Không chỉ vậy, phần nước dùng cũng được chế biến từ loại côn trùng này. Dế được làm sạch, lên men bằng cám gạo, sau đó sử dụng cho việc chế biến nước dùng. Những con dế này được nhân giống và nuôi dưỡng với quy trình ngặt nghèo ở quận Tokushima. Để làm nên một bát Koorogi Ramen, người ta đã phải sử dụng tới 100 con dế.

Du khách có cảm thấy thòm thèm với các món mì Ramen ngon tuyệt mà chúng tôi đã giới thiệu trên đây không? Hi vọng du khách sẽ tìm được món mì Ramen yêu thích của mình khi du lịch Nhật Bản!

Người Nhật thích ngủ dưới sàn hơn thay vì nằm trên giường

Với nhiều người, việc ngủ cuộn tròn trên chiếc giường êm ái là một thói quen và được ưa chuộng. Thế nhưng khi du khách bước vào một phòng ngủ kiểu Nhật, rất có thể du khách sẽ không tìm thấy một chiếc giường nào. Trên thực tế, ở Nhật Bản, hầu hết các gia đình đều ngủ trên sàn.

Ngủ là một nhu cầu sống còn với con người, bằng chứng là nó chiếm đến 1/3 thời gian cuộc đời. Trong khi ngủ, cơ thể sẽ tiết ra những hormone quan trọng giúp quá trình chuyển hóa và tích lũy năng lượng cho những hoạt động trong ngày. Chưa kể ngủ còn hỗ trợ não bộ sắp xếp thông tin một cách hệ thống và ghi nhớ lâu hơn.

Chính vì lẽ đó nên rất nhiều người đã chăm chút cho phòng ngủ của mình, từ giường đắt tiền cho đến đèn ngủ tốt, nệm cao cấp… Tuy nhiên, người Nhật thì không như vậy, nhiều người thích trải nệm mỏng và nằm ngủ trên sàn chứ không hề sử dụng giường. Du khách có thể thấy rõ thông qua truyện tranh và phim ảnh Nhật Bản, rất nhiều gia đình không có giường.

Vậy tại sao người Nhật lại ưa thích nằm ngủ dưới sàn? Dưới đây là 6 lý do để giải đáp cho câu hỏi này:

Tận dụng không gian sống

Nhật Bản nổi tiếng là đất nước “đất chật – người đông”. Do mật độ dân cư của Nhật tại thành thành phố khá đông nên số lượng căn hộ nhỏ ở khu vực đô thị cao. Điều đó cũng dẫn đến việc các ngôi nhà của người Nhật thường không rộng. Để tiết kiệm diện tích, người Nhật thường xây một bức tường mỏng hay cánh cửa trượt để ngăn cách những không gian chức năng khác nhau.

Họ cũng thường bố trí phòng khách biến thành phòng ngủ chỉ bằng chiếc chiếu Tatami – một loại chiếu có kích thước nhỏ gọn và nhẹ, được sử dụng với đa chức năng, để tận dụng tối đa không gian sống. Tatami có chức năng như tấm thảm thông thường, có thể dùng làm nơi tiếp khách khi có khách đến thăm, cũng có thể dùng làm giường khi muốn nghỉ ngơi và ngủ.

Ngoài ra, không chỉ đất hẹp, đặc điểm của nhà Nhật là khá thấp nên nếu dùng giường, một người lớn đứng lên nó có thể… chạm trần nhà. Vì sự thiếu hụt không gian này, người dân Nhật Bản đã phải thích nghi để đảm bảo chất lượng cuộc sống của họ ở mức chấp nhận được. Khi nằm trực tiếp trên sàn, trần nhà sẽ có cảm giác cao hơn. Khi không có giường, diện tích mặt sàn trống cũng rộng hơn.

Tiết kiệm

Thay vì việc vừa mất thêm một khoảng diện tích, vừa tốn thêm tiền mua giường, mua đệm thì người Nhật chỉ cần đầu tư chiếu vào mùa hè và chăn, đệm nhỏ vào mùa đông. Nhờ việc ngủ trên sàn sẽ giúp người Nhật tiết kiệm đến 1.000 USD để mua đệm và giường, tiền thay thế, sửa chữa,…

Nhận biết động đất sớm

Nhật Bản thường xuyên xảy ra nhiều trận động đất. Do đó, người Nhật cũng phải chuẩn bị kỹ càng nhất cho mọi tình huống có thể xảy ra.

Sống ở quốc đảo này, việc cảm nhận động đất kịp thời và thoát thân là điều rất quan trọng. Để phản ứng kịp với động đất, người Nhật nằm trên sàn nhà để cảm nhận rõ được rung chấn nếu xảy ra hiểm họa và nhanh chóng tìm đến nơi an toàn hơn. Nếu ngủ trên giường, cảm giác này sẽ chậm hơn nhiều. Hơn nữa, nếu trong nhà ít đồ đạc, họ có thể thoát thân nhanh chóng khi xảy ra động đất.

Giúp thức dậy dễ dàng hơn

Người Nhật luôn dậy đúng giờ mỗi sáng, đặc biệt là phụ nữ, để vệ sinh cá nhân và chuẩn bị bữa sáng cho kịp đi làm. Họ giữ được thói quen này là do việc nằm ngủ trên sàn giúp chất lượng giấc ngủ nâng cao hơn, từ đó cơ thể sẽ được nghỉ ngơi đủ và không cần phải ngủ thêm nữa. Bên cạnh đó, việc ngủ trên sàn cũng làm hạn chế sự cám dỗ của “chăn ấm nệm êm” tới mức nằm lì cả sáng.

Tốt cho hệ xương khớp

Nhiều người Nhật cho rằng nếu nằm trên giường quá mềm sẽ không tốt cho xương khớp. Tốt nhất nên ngủ trên giường có độ đàn hồi vừa phải, không quá cứng hoặc quá mềm. Theo họ, ngủ trên một bề mặt phẳng, cứng sẽ tốt cho lưng, đồng thời sẽ giúp tăng cường lưu lượng máu, vì trọng lượng của cơ thể được phân bổ đều và ít áp lực hơn lên các bộ phận khác nhau của cơ thể.

Trong khi đó, ngủ trên một chiếc giường nệm dù có thể sẽ cảm thấy thoải mái, nhưng nệm có thể bắt đầu lún xuống theo thời gian, khiến cột sống bị cong và dẫn đến đau lưng. Bên cạnh đó, việc ngủ ở sàn sẽ giảm nguy cơ bị ngã với người già khi đang nằm trên giường và muốn di chuyển xuống đất.

Người Nhật không chỉ nằm trên sàn gỗ, họ còn ngủ trên chiếc chiếu Tatami hay đệm. Chiếu Tatami được làm từ rơm khô đan ép chặt với nhau để tăng đàn hồi và tạo cảm giác êm ái. Bên cạnh đó, đệm ở Nhật Bản không quá dày, gối cũng khá đặc biệt với kích thước nhỏ hơn, ruột bên trong là các loại hạt. Lúc đầu, du khách sẽ cảm thấy gối khá cứng, không êm ái như các loại nhồi bông quen thuộc nhưng kiểu gối này có lợi cho cổ, gáy.

Theo truyền thống văn hóa

Đây là một trong những lý do chính trả lời cho câu hỏi tại sao người Nhật không ngủ giường. Đơn giản là vì văn hóa ngủ dưới sàn nhà đã có từ hàng nghìn năm trước, được truyền từ đời này sang đời khác. Một thói quen đã ăn sâu vào tâm thức của con người thì sẽ rất khó để thay đổi. Thậm chí, thói quen ngủ trên sàn của người Nhật còn có tên gọi riêng là “văn hóa Tatami” và được người dân sử dụng đến tận ngày nay.

Văn hóa “xứ Phù Tang” nói chung quả thật có rất nhiều điều thú vị. Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, du khách hãy dành thời gian khám phá và trải nghiệm nhiều hơn về các nét văn hóa đặc sắc này nhé! Chúc du khách có một chuyến đi vui vẻ!

10 địa điểm tự sát đáng sợ ở Nhật Bản không dành cho những người yếu bóng vía

Nhật Bản là quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới nhưng đồng thời cũng có số lượng người chết do tử tự cao dẫn đầu thế giới. Nghịch lý này không có gì khó hiểu khi song hành với sự phát triển của kinh tế là những áp lực trong công việc, đi cùng với nhịp sống công nghệ hiện đại là sự xa cách giữa người với người, nỗi cô đơn của mỗi cá nhân.

Theo số liệu thống kê hàng năm, ở Nhật Bản, số lượng người chết do tự tử còn cao hơn cả số người chết vì ung thư và tai nạn cộng lại. Có không ít người chọn những “điểm nóng” như đường ray tàu điện để kết thúc cuộc đời mình, nhưng cũng có những người khác chọn những địa danh thiên nhiên vô cùng đẹp như thác nước, vách đá,… để tìm đến cái chết. Nếu chưa từng được nghe qua hay chứng kiến du khách sẽ không thể ngờ được rằng những thắng cảnh này lại ẩn chứa nhiều câu chuyện rùng rợn và đáng sợ đến như vậy. Và dưới đây là 10 địa điểm chắc chắn sẽ khiến du khách phải bất ngờ và suy nghĩ lại xem có nên đặt chân đến đó hay không.

1. Rừng Aokigahara (tỉnh Yamanashi)

Khu rừng Aokigahara nằm ở phía Tây Bắc, ngay dưới chân núi Phú Sĩ với diện tích khoảng 35km2, được hình thành từ sau trận phun trào cuối cùng của núi Phú Sĩ vào thế kỷ IX.

Được biết, khu rừng này được xem là địa điểm tự sát “có tiếng” thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Cầu Cổng Vàng (Golden Gate Bridge) ở San Francisco, Mỹ. Trong quá khứ, rừng Aokigahara từ lâu đã được biết đến với biệt danh là “khu rừng tự sát” vì số lượng những vụ tự tử được xác nhận ở đây cao bất thường. Những người đến đây tự sát vì nhiều lý do, một số cơ sự phổ biến như bị thất tình, trầm cảm hoặc kinh doanh bết bát,…

Khu rừng Aokigahara gồm rất nhiều cây thân gỗ cao, tán dày bao phủ cả mặt đất. Những ai đi vào khu vực này để tìm kiếm thi thể thường rất dễ bị lạc đường vì các hàng cây quanh co tạo ra một mê cung bí ẩn và không có lối thoát. Người ta nói rằng, những ai đi vào trong khu rừng này đều không trở ra.

Câu chuyện càng ly kỳ hơn khi nghe kể rằng những người đi vào rừng Aokigahara với ý định tự sát nhưng sau đó thay đổi quyết định của mình còn cảm nhận được một lực kéo vô hình thôi thúc và lôi kéo họ vào trong bóng tối của khu rừng. Trong quá khứ, rừng Aokigahara từ lâu đã được biết đến là đã bị ám bởi linh hồn của những người già bị bỏ rơi nơi đây trong những thời kỳ cuộc sống khó khăn (điều này được gọi là “Ubasute” tức là cách hy sinh những thành viên già cả trong gia đình để bớt đi một miệng ăn).

Theo thống kê, từ năm 1950 đến nay, đã có hơn 500 thi thể được tìm thấy và vẫn còn rất nhiều thi thể chưa được tìm thấy do khu rừng quá rậm rạp. Để giảm thiểu việc tự sát, mỗi năm có hàng trăm tình nguyện viên vào rừng để ngăn các vụ tự sát. Thậm chí, ngay trước cửa rừng cũng có đặt tấm biển ghi dòng chữ: “Cuộc sống là món quà quý giá mà cha mẹ bạn ban cho. Hãy nghĩ lại một lần nữa về cha mẹ, anh em, con cái của bạn. Đừng giữ kín mọi chuyện cho riêng mình mà hãy chia sẻ với chúng tôi” nhằm ngăn cản ý định tự tử của những người tuyệt vọng muốn tìm đến cái chết.

Aokigahara nổi tiếng đến mức nó cũng đã từng xuất hiện trong rất nhiều câu chuyện thần thoại ở Nhật Bản, được coi là nơi cư ngụ của những hồn ma Yurei, là nguồn cảm hứng, bối cảnh cho nhiều cuốn tiểu thuyết và bộ phim kinh dị nổi tiếng như tiểu thuyết “Tháp sóng” (Nami no Tou, năm 1960) của Matsumoto Seicho, bộ phim “Biển cây” (Ki no Kai, năm 2005) của đạo diễn Takimoto Tomoyuki, hay gần đây nhất là bộ phim kinh dị “Khu rừng tự sát” (The Forest, năm 2016) của đạo diễn Jason Zada.

2. Vách đá Tojinbo (tỉnh Fukui)

Tojinbo là một vách đá gồ ghề, chúng đã bị bị xói mòn bởi các cơn sóng dữ dội trên bờ biển. Phía Bắc giáp Fukui và giáp đường biên giới Ishikawa. Nằm trong Vườn Quốc gia Echizen-Kaga Quasi, Vách đá Tojinbo được trải dài trên 1km, xem như một di tích thiên nhiên quý giá. Vách đá Tojinbo còn là một bộ sưu tập thiên nhiên của các cột đá khổng lồ. Bao gồm nhiều hình dạng như lục giác, ngũ giác.

Các nhà địa chất học cho rằng Tojinbo có thể đã được hình thành từ 12 – 13 triệu năm trước do hoạt động của núi lửa và sự mài mòn của sóng biển. Các tầng đá có hình dạng đa giác xếp đan xen với nhau, tạo nên lớp địa chất độc đáo mà chỉ xuất hiện ở 3 nơi trên toàn thế giới, trong đó 2 nơi còn lại là núi Kumgang ở Hàn Quốc và bờ biển phía Tây ở bán đảo Scandinavia, Na Uy.

Vào mùa đông những con sóng đánh vào nơi đây tạo nên các bong bóng xà phòng giữa các rạn san hô. Khi chúng kết hợp với gió lạnh, bong bóng này dường như nhảy múa lên trên mặt nước. Người ta thường sẽ gọi chúng với một cái tên là “Nami No Hana” có nghĩa hoa của sóng. Đây cũng là biểu tượng danh lam thắng cảnh vào mùa đông.

Mặc dù là một trong những kỳ quan hiếm có trên thế giới, nhưng với địa hình cheo leo hiểm trở, Tojinbo đã trở thành địa điểm có số người tự tử cao nhất nhì Nhật Bản. Cứ mỗi năm tại đây lại phát hiện hơn 10 xác chết do sóng đánh dạt vào bờ, chưa kể có rất nhiều người đến đây có ý định tự sát nhưng đã được nhóm tình nguyện khuyên ngăn. Số người tự sát ở đây nhiều đến nỗi chính quyền địa phương phải xây dựng một bốt điện thoại công cộng ngay cạnh bờ biển để họ có thể nhắn nhủ vài lời cho người thân trước khi sang thế giới bên kia. Những người tìm đến đây thường là những người vô gia cư, người đàn ông không có gia đình hay những học sinh bị áp lực học hành đè nặng. Họ thường ngồi cô đơn thất thần ở đây suốt nhiều giờ cho đến khi mặt trời lặn và du khách thưa hẳn rồi tự gieo mình xuống những con sóng trắng để kết thúc cuộc đời mình ở chốn thiên đường. Dù phong cảnh hoàng hôn ở đây rất đẹp nhưng có gì đó vắng lặng đến rợn người. Những ai yếu bóng vía hẳn sẽ chẳng thể ngắm hoàng hôn ở đây.

Hiện nay, tại Tojinbo đã thành lập một tổ chức tuần tra tình nguyện quan sát khu vực này cả ngày lẫn đêm để hạn chế ý định tự sát của người dân. Không chỉ vậy, chính quyền địa phương cũng đã lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng ở ven biển để dễ dàng cho việc phát hiện các trường hợp tự sát.

3. Vách đá Sandanbeki (tỉnh Wakayama)

Nằm cách không xa bãi biển Shirahama vô cùng nổi tiếng của tỉnh Wakayama là vách đá Sandanbeki, nơi sở hữu khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đúng như tên gọi của nó, Sandanbeki (tên Hán Việt là “Tam đoạn bích”, nghĩa là “vách đá ba bước”) gồm 3 vách đá dốc có độ cao 50m nhô ra khỏi mặt biển, là một nơi có địa hình bờ biển vô cùng độc đáo với những tầng đá xếp thành từng lớp.

Vách đá Sandanbeki có độ cao 50m và có những vách đá trải dài đến 2km về phía Bắc, đến gần thị trấn Sandan. Những vách đá ở Sandanbeki có thể được tìm thấy ở bờ Nam Senjojiki. Cách đây khá lâu, các vách đá này được sử dụng như là một nơi để quan sát cá và tàu vượt qua. Đây là nơi mà du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh đẹp ngoạn mục của thiên nhiên khi những con sóng đập vào vách đá tung bọt trắng xóa.

Mặc dù vách đá Sandanbeki là địa điểm tham quan phổ biến với khách du lịch nhưng hiếm người nước ngoài nào biết được nó cũng là một trong những địa điểm tự sát nổi tiếng ở Nhật Bản. Mỗi năm có hàng chục người gieo mình xuống biển để mặc cho những con sóng đưa mình sang thế giới bên kia.

Dưới vách đá dựng đứng, những con sóng tung tăng nhảy múa mang trong mình nét đẹp mê hoặc như đang vời gọi lãng khách. Người dân địa phương truyền tai nhau rằng, nếu bạn đứng gần vực đá, sẽ có một sức mạnh vô hình nào đó kéo bạn xuống dưới nên họ khuyến cáo khách du lịch không nên đến quá gần vách đá. Hơn nữa, nhiều người cũng đồn thổi rằng, nếu bạn chụp ảnh ở đây sẽ có một con ma xuất hiện trong bức hình bạn chụp. Tất nhiên, đó chỉ là tin đồn bởi hiện nay có rất nhiều khách du lịch đến đây và chụp ảnh bình thường.

Tuy là hơi đáng sợ nhưng nơi đây cũng đáng để du khách đến khám phá bởi những ưu ái mà thiên nhiên ban tặng. Bên dưới vách đá, cách mặt đất hơn 36m có một hang động lớn tên là “Sandanbeki Doukutsu” gắn với truyền thuyết về Cướp biển Kumano thời Heian (794-1885). Truyền thuyết kể rằng, vào nửa sau thế kỷ VIII có một nhóm cướp biển do Tagamaru đứng đầu chuyên cướp bóc và đột kích các con tàu nhưng sau đó đã biến mất một cách bí ẩn. Hang động Sandanbeki được cho là một trong những nơi ẩn náu của họ. Du khách có thể xuống hang động bằng thang máy tính phí để khám phá những bí ẩn về câu chuyện truyền thuyết này với hàng loạt những vũ khí, áo giáp thời Trung cổ, những mô hình liên quan đến hoạt động cướp biển cũng như những vết tích mà thiên nhiên để lại được trưng bày ở Bảo tàng trong hang động. Bên cạnh đó, trong hang động cũng có thờ vị thần nước Muro Daibenzaiten linh thiêng. Tại đây, du khách có thể mua những lá bùa Senja Fuda để viết những lời cầu nguyện của mình lên thẻ.

4. Mũi đất Ashizuri (tỉnh Kochi)

Với khung cảnh ven biển đẹp ngoạn mục nằm ở cực Nam vùng Shikoku, mũi đất Ashizuri đã trở thành một trong những địa danh du lịch khám phá tuyệt vời cho những ai ưa thích hoạt động trekking đi bộ đường dài, đua xe, hay ngắm sao về đêm. 

Con đường mòn đi bộ đường dài ven biển dài 2km uốn lượn qua cảnh quan gồ ghề, khúc khuỷu của mũi đất Ashizuri cho tầm nhìn xuống những con sóng dữ dội bên dưới. Nằm rải rác dọc các con đường mòn ở đây là nhiều địa điểm bí ẩn gắn liền với Hoằng Pháp Đại Sư, nhà sư Phật giáo Nhật Bản có sức ảnh hưởng lớn, còn được biết đến với tên Không Hải Thần tăng (Kukai). Du khách sẽ được chiêm ngưỡng cảnh quan, mặt nước và đường chân trời từ ngọn hải đăng màu trắng trăm năm tuổi “Ashizuri Misaki Todai” hoặc Đài quan sát Mũi Tengu. Chùa Kongobuji, nơi được cho là do Không Hải cho xây dựng năm 822, là điểm đến tham quan hàng đầu.

Ngoài là một tuyệt cảnh vừa có thể ngắm bình minh và hoàng hôn có “một không hai” ở Nhật Bản, mũi đất Ashizuri còn được gắn cái mác “địa điểm ma ám” bắt nguồn từ cuốn tiểu thuyết “Mũi đất Ashizuri” của tác giả Tamiya Torahiko. Cuốn tiểu thuyết này viết về các vụ tự sát và đã được chuyển thể thành phim hai lần. Có giai đoạn số lượng người tự tử tại đây tăng vọt kể từ khi cuốn tiểu thuyết này ra đời khiến cho chính quyền địa phương phải dựng thêm một cái biển gần đó: “Hãy nán lại và suy nghĩ thêm một chút”.

5. Thác Kegon (tỉnh Tochigi)

Thác Kegon Nằm ở thành phố Nikko của tỉnh Tochigi, Kegon là một dòng thác hùng vĩ với độ cao 97m chảy qua một hẻm núi đá hẹp, đổ xuống hồ Chuzenji với địa hình đầy hiểm trở bên dưới. Kegon được hình thành bởi sự phun trào của núi lửa Nantaisan cùng với dòng chảy của hồ Chuzenji-ko bị chặn bởi một bờ đá và tạo thành một dòng thác đổ.

Thác Kegon được xem là một trong 3 thác nước lớn nhất Nhật Bản (bên cạnh Thác Nachi ở Wakayama và Thác Fukuroda ở Ibaraki). Đây cũng là một địa điểm tham quan nổi tiếng nằm trong khu du lịch – di sản thế giới Nikko ở Tochigi. Mỗi năm, Thác Kegon thu hút hàng triệu khách trong nước và quốc tế ghé thăm để chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt mỹ. Vào khoảng cuối tháng 5, khi đến thời điẻm tuyết tan, mực nước tại thác tăng lên tạo thành một khung cảnh tráng lệ. Mùa xuân lại có hoa đỗ quyên và hoa anh đào nở rộ, đến mùa hè thì có những con chim én bay lượn xung quanh, mùa thu thì sẽ có lá phong đỏ Momiji, vào mùa đông thì xuất hiện những khối đèn chùm bằng băng tuyết trên những cánh rừng quanh đó tạo nên cảnh sắc bốn mùa luân phiên tô điểm cho thác.

Tuy vậy, với độ cao gần 100m cùng vách đá cheo leo đã khiến cho nơi này trở thành địa điểm lý tưởng cho những ai muốn kết thúc cuộc đời mình. Kegon trở thành địa điểm tự sát nổi tiếng bắt đầu từ vụ tự tử của một học sinh trung học phổ thông tên là “Fujimura Misao” vào ngày 22/5/1903. Trước khi gieo mình xuống từ đỉnh thác, Fujimura Misao đã để lại một “di chúc” có tựa đề Gantounokan được khắc ở thân cây sồi gần dòng thác. Từ đó cho đến nay, ước tính Thác Kegon đã cướp đi sinh mạng của hơn 200 người.

6. Cầu Yagiyama (tỉnh Miyagi)

Cầu Yagiyama được xây dựng vào năm 1931 và được tu sửa lại vào năm 1965, là nơi đã chứng kiến hàng loạt vụ tử tử đau thương. Do số lượng người nhảy cầu tự tử tại đây không hề nhỏ nên Yagiyama đã in sâu vào trong tâm thức của người dân địa phương là một nơi nên tránh càng xa càng tốt. Bởi vậy, khu vực này đặc biệt yên tĩnh vào ban đêm và có rất ít người qua lại. Có nhiều người nói rằng, khi đi qua cây cầu họ cảm thấy buồn nôn và nước mắt chảy giàn giụa mà không biết vì lý do gì. Bởi vậy, nơi đây chắc hẳn sẽ không phải là nơi dành cho những ai yếu bóng vía.

Cây cầu Yagiyama cũng đã từng xuất hiện trong một loạt chương trình thực tế và phim truyền hình của đài truyền hình Fuji, là tâm điểm của nhiều bức ảnh tâm linh xuất hiện trên mạng, trong đó nổi bật nhất là chương trình “Trải nghiệm kỳ lạ! Không thể tin được”. Hiện tại, do cây cầu nằm gần Lâu đài Aoba – địa điểm du lịch nổi tiếng, các trường đại học nên để không ảnh hưởng đến du lịch và giáo dục, chính quyền đã treo biển cảnh báo khách không nên ra vào khu vực này.

7. Cầu vịnh Yokohama (tỉnh Kanagawa)

Cầu vịnh Yokohama là một cây cầu dây văng có chiều dài 860m, nối giữa vịnh Yokohama và vịnh Tokyo một khoảng 460m. Cây cầu được hoàn thành vào năm 1989 với cấu trúc 2 tầng: tầng trên là đường cao tốc Shuto và tầng dưới là quốc lộ 357. Cây cầu cũng đã từng được chọn làm bối cảnh trong nhiều chương trình truyền hình và bộ phim nổi tiếng như: “Tội phạm nguy hiểm”, “Godzilla”,… Đặc biệt, vào buổi tối, cây cầu được thắp đèn vô cùng lung linh và huyền ảo. Với vẻ đẹp lãng mạn của những ngọn đèn thắp sáng, nơi đây đã trở thành một địa điểm hẹn hò tuyệt vời của nhiều cặp đôi, một trường đua xe lý tưởng của nhiều tay đua và cũng là một “chốn lên thiên đường” của nhiều người muốn rũ bỏ cuộc sống thực tại.

Khác với tầng dưới có phần lề đường hẹp, ở tầng trên (đường cao tốc Shuto), phần lề đường khá rộng, đủ chỗ cho một chiếc xe ô tô có thể dừng lại. Cũng chính vì thế mà người tự sát thường chọn tầng trên làm điểm đứng bởi họ có thể dừng xe lại rồi gieo mình xuống biển. Cụ thể số thi thể được tìm thấy vào năm 2004 là 1 người, năm 2006 là 2 người, năm 2007 là 1 người, 2008 là 6 người và các năm sau đó luôn duy trì ở mức 1 con số. Con số này chắc chắn còn lớn hơn rất nhiều vì dòng hải lưu ở đây có thể đã cuốn trôi thi thể của những người tự tử ra biển trước khi chúng được phát hiện.

8. Cầu Andoji (tỉnh Osaka)

Tọa lạc ngay tại thành phố náo nhiệt Osaka, cầu Andoji bắc qua dòng sông Toyokobori cũng được xem là một trong những địa điểm tự sát khét tiếng trong lịch sử. Cây cầu có chiều dài 49,2m, chiều rộng 6m (trong đó bao gồm cả 1,5m dành cho người đi bộ). Andoji được xây dựng từ đầu thời kỳ Edo và được xem là một tuyến đường quan trọng nối liền với đường cao tốc Kuragarigoe Nara, là con đường ngắn nhất kết nối giữa Osaka và Nara.

Các vụ tự tử tại đây xảy ra nhiều nhất vào thời kỳ Edo (1603 – 1868). Vì có quá nhiều vụ tự tử xảy ra tại đây nên đã có rất nhiều câu chuyện huyền bí và ly kỳ được thêu dệt và lưu truyền đến ngày nay. Không những thế, cây cầu cũng đã trở thành bối cảnh trong câu chuyện Rakugo nổi tiếng mang tên “Manjyu Kowai”, trong đó có tình tiết một ông già đã thấy một ma nữ ở gần cầu Andoji khi ông còn nhỏ.

9. Đập nước Amagase (tỉnh Kyoto)

Amagase là một đập bê tông hình vòm cao 73m, được xây dựng trên dòng chính của sông Yodo (còn có tên gọi khác là sông Seta khi chảy qua tỉnh Shiga và là sông Uji khi chảy qua tỉnh Kyoto). Amagase giúp kiểm soát lũ ở sông Yodo, cung cấp nước cho thành phố Uji và đặc biệt có công suất điện lên tới 598.000kW.

Tuy vậy, kết cấu cao và đồ sộ cũng đã biến Amagase trở thành nơi “giải thoát” của những người muốn chấm dứt cuộc sống. Những con số liên quan đến vụ tự tử đã khiến cho Đập Asagase trở thành “địa điểm tự sát nổi tiếng ở Nhật Bản”. Đỉnh điểm nhất là chỉ trong 4 tháng từ tháng 7 – 11/2008 đã phát hiện 7 thi thể đã tự sát tại đây. Người ta đồn rằng, linh hồn của những người đã tự tử tại đây hàng đêm vẫn còn lảng vảng dưới con đập. Không những thế, có rất nhiều người đã từng đến đây kể lại: Ở thượng nguồn con đập có một người đàn ông huyền bí. Dù có gọi lại hay bắt chuyện thì ông ấy vẫn không trả lời, hơn nữa, bước chân của ông ấy cũng chậm một cách kỳ lạ. 

Trước tình hình số vụ tự tử không ngừng tăng lên, chính quyền địa phương đã xây dựng rào chắn và trang bị camera giám sát ở những khu vực hiểm yếu quanh con đập. Tháng 12/2008, con đường lưu thông qua đập đã bị cấm. Hiện tại, địa điểm này chỉ tiếp nhận khách tham quan vào ban ngày. Vào buổi tối, ở phía Bắc con đập được thắp đèn xanh (nơi xảy ra các vụ tự tử) nhằm ngăn chặn tối đa số vụ tự tử. Đặc biệt, tại đây cũng được trang bị một bốt điện thoại công cộng có ghi hàng loạt danh sách số điện thoại cần hỗ trợ kèm dòng chữ: “Khi bạn buồn chán, đã có chúng tôi ở bên”.

10. Nhà ga Shin Koiwa (Tokyo)

Có lẽ không có gì là lạ khi một ngày đẹp trời nào đó, du khách đang đi trên một con tàu tại Nhật Bản thì đột ngột tàu dừng lại, ngoại trừ nguyên nhân do động đất hay một tai nạn đáng tiếc nào đó xảy ra thì còn có một nguyên nhân khác – đó là do có ai đó nhảy xuống đường tàu tự tử. Được xem là một trong những địa điểm thường xuyên xảy ra các vụ tự sát, Nhà ga Shin Koiwa đã bị liệt vào danh sách đỏ những địa điểm cần đưa ra nhiều biện pháp mạnh nhằm hạn chế tình trạng tự sát đáng báo động trong những năm gần đây. Một con số không nhỏ là chỉ trong 5 năm từ năm 2012 – 2017 đã có tổng cộng 22 vụ tự sát ngay tại nhà ga này.

Trước tình trạng trên, chính quyền đã đưa ra một loạt biện pháp nhằm cải thiện tình hình. Hàng ghế chờ thay vì xoay ra phía đường ray thì họ lại hướng vào tường với hình ảnh của những con vật đáng yêu ngộ nghĩnh như chú chó hay chú mèo để người xem cảm thấy yêu cuộc sống hơn. Thậm chí, trên bảng thông báo còn có dòng chữ “Xin hãy mạnh mẽ lên” để tiếp thêm nghị lực sống cho những người đang có ý định chối bỏ cuộc sống.

Do áp lực từ nhiều phía, mỗi năm ở Nhật Bản có hàng triệu người cảm thấy tuyệt vọng và mong muốn tìm đến cái chết, điều này tạo nên hàng trăm tấn bi kịch đau lòng. Mỗi địa điểm ở trên rất độc đáo, thậm chí có nhiều nơi còn được coi là tuyệt cảnh, nhưng có một lẽ: những nơi có nhiều người chết thường rất huyền bí và đáng sợ, nên nếu du khách tò mò và muốn trải nghiệm cảm giác mạnh khi đến đây trong hành trình du lịch Nhật Bản thì hãy suy nghĩ thật kỹ đã nhé!

Khám phá đường zig zag dẫn lên đỉnh núi Phú Sĩ ở Nhật Bản

Là ngọn núi cao nhất Nhật Bản với chiều cao 3.776m, Núi Phú Sĩ là kết quả của hoạt động núi lửa từ hơn 100.000 năm trước. Đây là biểu tượng tinh thần cho cư dân của đất nước này. Mặc dù có kích thước vô cùng to lớn, thế nhưng, hàng năm Núi Phú Sĩ vẫn chào đón hàng trăm ngàn người đi bộ đường dài đến chinh phục núi. Từ xa, du khách có thể thấy những đường zig zag dẫn lên đỉnh núi nổi bật trên nền tuyết trắng.

Thực tế, những đường zig zag dẫn lên đỉnh núi Phú Sĩ là con đường bằng gỗ giúp du khách chinh phục đỉnh núi dễ dàng hơn. Chỉ từ khoảng cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 hàng năm, con đường này sẽ ẩn đi dưới tuyết dày.

Có tới hơn 300.000 người chinh phục núi Phú Sĩ vào mỗi mùa hè, đi theo 4 cung đường khác nhau để leo đến đỉnh. 4 cung đường mang tên: Yoshida, Subashiri, Gotenba, và Fujinomiya với cấp độ từ dễ đến khó. Trong đó, cung đường Yoshida là dễ nhất và gần nhất để du khách di chuyển từ Tokyo đến hồ Kawaguchiko dưới chân núi. Cung này chính là đường zig zag để lên và xuống sườn núi. Ngược lại, cung đường khó nhất là Fujinomiya vì đường dốc nhưng khoảng cách lên đỉnh núi lại ngắn nhất.

Dọc đường họ có thể nghỉ lại ở trạm dừng đủ tiện nghi hoặc nơi lưu trú. Hầu hết người leo núi xuất phát từ nửa đêm để kịp ngắm bình minh từ trên đỉnh Phú Sĩ. Một số người dư dả thời gian hơn có thể cắm trại qua đêm trên núi và tiếp tục leo từ 2h để lên đỉnh vào lúc bình minh.

Ngoài cảm hứng sáng tác nghệ thuật, núi Phú Sĩ từ lâu đã là một địa điểm tâm linh quan trọng với người Nhật. Họ không chỉ thờ phụng mà còn sợ hãi và kính trọng đỉnh núi cao nhất nước này. Tương truyền núi Phú Sĩ là nhà của kami – những linh hồn có sức mạnh điều khiển các yếu tố như nước và lửa. Những nghi lễ thờ cúng đầu tiên thực hiện quanh núi đều nhằm làm dịu các linh hồn lửa hủy diệt để ngăn chặn thảm họa tự nhiên.

Trước thế kỷ 6, người Nhật đã thờ núi Phú Sĩ từ xa bởi chính ngọn núi cũng được xem là nơi quá thiêng liêng đối với người phàm trần. Ngọn núi được coi là nơi lý tưởng để thiền định, tìm kiếm sự cô độc, thực hành khổ hạnh. Theo thời gian nhiều nghi lễ tôn thờ chuyển dần qua tu luyện bản thân và leo núi cũng thành một hình thức thờ cúng.

Theo một ghi chép từ thế kỷ 12, những người bước đi trên không gian của ngọn núi lửa đều phải nghĩ từng giọt nước, ngọn cỏ ở đây đều là vị thuốc bất tử dù cho họ có đau đớn cỡ nào. Vì thế mà leo núi làm người xưa tin rằng họ sẽ có thêm sức mạnh tâm linh. Những người leo núi Phú Sĩ về được người đời tôn thờ, chào hỏi kính cẩn, cúng dường và thậm chí còn cố gắng chạm vào để lấy may. Tới thế kỷ 16, người theo giáo phái Fujikō tin rằng Phú Sĩ là một sinh vật có linh hồn, sinh ra từ sự hợp nhất của Đất và Trời, của âm và dương, họ cũng cổ vũ mạnh mẽ các chuyến hành hương leo núi.

Tuy được tôn sùng như một tôn giáo nhưng vào thời Minh Trị (1868-1912) sau các nỗ lực thống nhất nước Nhật theo Thần Đạo, nhiều đền thờ, chùa chiền ở quanh núi Phú Sĩ đã bị cướp và mất giá trị lịch sử. Đến năm 1945, sau Thế chiến thứ 2, tự do tôn giáo ở Nhật Bản mới được thiết lập và các tín đồ giáo phái cũ như Fujikō vẫn còn nhưng họ không thể lấy lại sức ảnh hưởng lớn như trước đây.

Từ tháng 6 đến tháng 8 hàng năm thường có khoảng 400.000 người đến núi Phú Sĩ, họ vừa thở hổn hển, mệt nhọc vừa leo núi trong bóng tối trước khi bình minh xuất hiện. Mặt đất biến mất dưới những đám mây dày và sự im lặng tôn kính phủ khắp các sườn núi khi mặt trời bắt đầu phủ ánh vàng mờ lên đỉnh Phú Sĩ. Trong tiếng Nhật có riêng một từ để nói cảnh mặt trời mọc từ núi Phú Sĩ là “goraiko”.

Ngày nay, người leo núi Phú Sĩ vì mục đích giải trí nhiều hơn cả người đến đây hành hương nhưng nơi này vẫn luôn giữ được vẻ linh thiêng.

Với độ cao gần 4.000m cùng những cảnh vật đẹp đến xao xuyến lòng người, núi Phú Sĩ hẳn sẽ là ước mơ chinh phục của bao “tín đồ” đam mê bộ môn leo núi. Nào, hãy Book Tour Nhật Bản và cùng chúng tôi chinh phục đỉnh núi Phú Sĩ nhé!